Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

QUYỀN CỦA TRẺ EM KHUYẾT TẬT

  • Thực hiện: Administrator
  • 30/11/2017

1. Trẻ em khuyết tật và quyền của trẻ em khuyết tật

            Trẻ em là một thuật ngữ được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Công ước của Liên hiệp quốc (LHQ) về Quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”[1]. Trong một số trường hợp, khái niệm trẻ em cũng được tiếp cận dưới góc độ người chưa thành niên. Theo đó, người chưa thành niên được xác định “là trẻ em hay người trẻ tuổi”[2]. Thuật ngữ người chưa thành niên có nội hàm cùng thuật ngữ trẻ em cũng được quy định trong Bản quy tắc của LHQ về Bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, theo đó, “người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”[3]. Sự giao thoa của hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên cũng được ghi nhận trong Từ điển Black is Law Dictionary, “người chưa thành niên là trẻ em và trẻ em là người dưới 18 tuổi”[4] . Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại tiếp cận khái niệm trẻ em và người chưa thành niên dưới các khía cạnh khác nhau.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, người chưa thành niên được xác định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”[5]. Trong khi đó, Luật Trẻ em xác định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[6].

Thuật ngữ người khuyết tật cũng được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng, người khuyết tật là “công dân hạng hai”[7], người thuật ngữ khuyết tật được xếp đồng nghĩa với thuật ngữ người tàn tật. Có quan điểm tiếp cận người khuyết tật dưới góc độ từ thiện. Do đó, người khuyết tật cần sự trợ giúp đặc biệt từ phía xã hội và người khuyết tật khó có cơ hội hoà nhập vào môi trường xung quanh cũng như khả năng thay đổi môi trường sống và sự tác động đến ý thức hệ của cộng đồng đối với họ. Với cách tiếp cận này, họ thụ động trong cách được hưởng các quyền mà pháp luật quy định. Có quan điểm tiếp cận người khuyết tật dưới góc độ y tế, theo đó, người khuyết tật được Nhà nước chữa trị và với mục tiêu làm cho người khuyết tật trở lại trạng thái bình thường bằng can thiệp y tế[8]. Bên cạnh đó, tiếp cận dựa trên quyền của người khuyết tật cũng nhận được nhiều sự quan tâm của xã hội[9]. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên những cách tiếp cận đó đã góp phần tạo ra một bước đột phá mới trong tư duy, nhận thức của cộng đồng về quyền đối với người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng ở nước ta.  

Theo quy định của Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006, người khuyết tật “bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ với hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”[10]. Phù hợp với Công ước quốc tế, trẻ em khuyết tật có thể được hiểu là: “Người dưới 16 tuổi có sự biến đổi bất thường về hình thái hay chức năng của bộ phận nào đó trong cơ thể gây ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng với những người khác”.

Quyền của người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng được ghi nhận trong rất nhiều văn kiện quốc tế[11] và pháp luật quốc gia[12]. Quyền của trẻ em khuyết tật được xem là những thuộc tính tự nhiên gắn với chính bản thân họ. Trẻ em khuyết tật được hưởng các quyền con người một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử với các đối tượng khác trong xã hội. Mặt khác, trẻ em khuyết tật cũng tham gia vào cộng đồng như những công dân thực thụ khi tiếp cận và thực hiện các loại quyền đã được thừa nhận dưới phương diện pháp lý. Theo đó, quyền của trẻ em khuyết tật có những đặc trưng cơ bản của quyền con người nói chung như: i) tính phổ biến; ii) tính đặc thù; iii) tính không thể bị tước bỏ; iv) tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền[13].

2. Nội dung quyền của trẻ em khuyết tật

2.1 Quyền chăm sóc sức khoẻ        

Theo quy định của pháp luật nước ta, Nhà nước có chính sách để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đồng thời, pháp luật cũng quy định, Nhà nước bảo đảm thực hiện các biện pháp theo dõi sức khỏe định kỳ cho trẻ em theo độ tuổi, chăm sóc dinh dưỡng, sức khỏe ban đầu và tiêm chủng cho trẻ em; phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em, tư vấn và hỗ trợ trẻ em trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phù hợp với độ tuổi theo quy định của pháp luật. Nhà nước đóng, hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế phù hợp với độ tuổi, nhóm đối tượng và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ủng hộ, đầu tư nguồn lực để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, ưu tiên cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Trẻ em khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và sử dụng các dịch vụ y tế phù hợp, được hưởng chính sách bảo hiểm y tế. Pháp luật cũng khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thực hiện khám bệnh, chữa bệnh cho người khuyết tật và quy định trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Trẻ em khuyết tật được thực hiện biện pháp khám bệnh, chữa bệnh phù hợp, trong trường hợp trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng và trẻ em khuyết tật nặng có chế độ ưu đãi về khám bệnh, chữa bệnh. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định các biện pháp phòng ngừa và phát hiện sớm khuyết tật; xác định khuyết tật bẩm sinh đối với trẻ em sơ sinh để kịp thời có biện pháp điều trị và chỉnh hình, phục hồi chức năng phù hợp.

Trẻ em khuyết tật được phục hồi chức năng thông qua Viện Chỉnh hình, phục hồi chức năng; Trung tâm Chỉnh hình, phục hồi chức năng; Bệnh viện Điều dưỡng, phục hồi chức năng; Khoa Phục hồi chức năng của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Bộ phận Phục hồi chức năng của cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở khác. Ngoài ra, trẻ em khuyết tật còn được tạo điều kiện, hỗ trợ phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.

2.2 Quyền giáo dục

            Giáo dục đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho con người là đầu tư cho quá trình phát triển. Đối với trẻ em khuyết tật, quyền giáo dục là một loại quyền đặc biệt. Loại quyền này gắn liền với hoạt động về trí tuệ và sử dụng trí tuệ là công cụ để tiếp thu các kiến thức được truyền thụ. Tuy nhiên, trẻ em khuyết tật về trí tuệ gặp những rào cản lớn khi thực thi loại quyền này. Chính vì vậy, pháp luật đã có những quy định mang tính ưu tiên cho đối tượng đặc thù này.

            Pháp luật quy định về các ưu đãi đối với trẻ em khuyết tật như: được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của người khuyết tật; được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập. Ngoài ra, trẻ em khuyết tật cũng gặp những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi quyền giáo dục vì các nhu cầu riêng cần được hỗ trợ trong quá trình học tập. Do đó, trẻ em khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia. Đặc biệt, pháp luật quy định ba hình thức giáo dục cho trẻ em khuyết tật bao gồm: giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt. Đồng thời pháp luật cũng quy định trách nhiệm của cơ sở giáo dục, Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập trong bảo đảm quyền giáo dục cho trẻ em khuyết tật.

2.3 Quyền dạy nghề và quyền làm việc

            Dạy nghề giữ vai trò quan trọng tạo nguồn nhân lực bổ sung vào thị trường lao động, đặc biệt là nguồn nhân lực từ trẻ em khuyết tật. Để ghi nhận trẻ em khuyết tật được hưởng quyền dạy nghề, trong pháp luật đã ghi rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật học nghề, được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc bảo đảm điều kiện dạy nghề cho trẻ em khuyết tật. Pháp luật cũng mở ra nhiều cơ hội để giải quyết việc làm cho trẻ em khuyết tật sau khi được học nghề và bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ.

            Trong lĩnh vực việc làm, bảo đảm quyền làm việc và có việc làm luôn là bài toán khó mang tính toàn cầu, đặc biệt là quyền làm việc của trẻ em khuyết tật. Pháp luật quy định vai trò của Nhà nước trong điều tiết các quan hệ lao động, tạo mọi điều kiện để người khuyết tật tham gia vào thị trường lao động. Nhà nước tạo điều kiện để trẻ em khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật. Pháp luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng trẻ em khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của trẻ em khuyết tật. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho trẻ em khuyết tật. Đồng thời, pháp luật cũng ghi nhận quyền bình đẳng trong lĩnh vực việc làm của trẻ em khuyết tật, quyền không bị phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc làm, quyền tự tạo việc làm của trẻ em khuyết tật dưới sự bảo trợ của Nhà nước và sự hỗ trợ của người sử dụng lao động. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách nhiệm và chế độ ưu đãi của người sử dụng lao động khi sử dụng trẻ em khuyết tật vào làm việc. Các ưu đãi dành cho doanh nghiệp thông thường là những ưu đãi về thuế, sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, vật tư cho các doanh nghiệp sử dụng trẻ em khuyết tật.

2.4 Quyền bảo trợ xã hội

   Bảo trợ xã hội được xem là một bộ phận của hệ thống an sinh xã hội. Vì vậy,khi đánh giá tốc độ phát triển văn minh của một quốc gia, tiêu chí để đo lường chính là hệ thống an sinh xã hội trong quốc gia đó. Thông qua bảo trợ xã hội, Nhà nước tiến hành phân phối lại thu nhập cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương, trẻ em khuyết tật, tác động lên nghèo đói và bất bình đẳng xã hội.

Pháp luật quy định chế độ trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng thángcho trẻ em khuyết tật, trong đó, những đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm người khuyết tật đặc biệt nặng và người khuyết tật nặng. Để tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được hưởng bảo trợ xã hội, pháp luật cũng ghi nhận đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng, mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với từng loại đối tượng trẻ em khuyết tật.

Không chỉ thế, pháp luật cũng quy định chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội và các chế độ khác về bảo trợ xã hội cho trẻ em khuyết tật. Đồng thời, pháp luật quy định trách nhiệm của cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật người khuyết tật trong việc tuân thủ điều kiện hoạt động của cơ sở chăm sóc trẻ em khuyết tật; thực hiện đầy đủ các quy chuẩn về nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp trẻ em khuyết tật tương ứng với từng loại cơ sở, thực hiện cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với trẻ em khuyết tật.

3. Một số nhận xét, đánh giá quyền của trẻ em khuyết tật

            Nhìn nhận một cách khách quan, quyền của trẻ em khuyết tật trong pháp luật nước ta về cơ bản đã bước đầu đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong các văn kiện pháp lý quốc tế về nhân quyền. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật. Thông qua hành lang pháp lý này, việc thực thi quyền của trẻ em khuyết tật ngày càng được củng cố, bảo vệ và phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá quốc tế như hiện nay, pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật vẫn còn những những hạn chế sau đây:

            Thứ nhất, quy định của pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật còn tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật; việc xác định độ tuổi trẻ em chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

   - Quyền của trẻ em khuyết tật được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật khác nhau như: Hiến pháp, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Bộ luật Lao động và nhiều văn bản dưới luật. Điều này tạo ra những khó khăn nhất định trong quá trình tổ chức thi hành.

   - Các văn bản pháp lý quốc tế xác định độ tuổi trẻ em mang tính mở; trong đó, xác định độ tuổi trẻ em có nội hàm với độ tuổi của lao động chưa thành niên. Trong khi đó, biên độ để xác định độ tuổi trẻ em của pháp luật nước ta thấp hơn so với thông lệ quốc tế. Điều này gây khó khăn trong cách xác định các biện pháp bảo đảm quyền của trẻ em khuyết tật.

   Thứ hai, quy định của  pháp luật về việc làm cho trẻ em khuyết tật còn thiếu cụ thể, ảnh hưởng tới việc bảo đảm quyền có việc làm của trẻ em.

   Quy định của pháp luật về việc làm cho trẻ em khuyết tật còn mang tính định khung, chủ yếu dưới dạng khuyến khích, kêu gọi, khẩu hiệu, chưa quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến chính sách miễn giảm, ưu đãi về thuế, quỹ quốc gia về việc làm, nguồn kinh phí và cách thực hiện nguồn kinh phí để bảo đảm và thực thi chính sách đối với trẻ em khuyết tật… Đặc biệt, quy định cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng được hỗ trợ, ưu đãi tuỳ theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp là một bất cập, thiếu sự bình đẳng giữa cơ sở sản xuất, kinh doanh có sử dụng lao động là người khuyết tật với cơ sở sản xuất, kinh doanh không sử dụng lao động là người khuyết tật.

Thứ ba, quy định về dạy nghề cho trẻ em khuyết tật chưa đầy đủ.

Quy định của pháp luật về dạy nghề cho trẻ em khuyết tật còn bỏ trống nhiều vấn đề như: i) chưa luật hoá các tiêu chí về cơ sở doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động trẻ em khuyết tật; ii) chưa quy định trẻ em khuyết tật được học nghề, bổ túc nghề, đào tạo lại nghề tại các cơ sở dạy nghề được miễn, giảm học phí; iii) chưa luật hoá các nội dung liên quan đến vấn đề giúp đỡ lao động là người khuyết tật phục hồi chức năng lao động. Chưa luật hoá các điều kiện, nội dung, hình thức và cơ chế hỗ trợ trẻ em khuyết tật phục hồi chức năng lao động, chưa quy định cụ thể trách nhiệm của các doanh nghiệp trong tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ trẻ em khuyết tật bị tai nạn lao động được phục hồi chức năng lao động. Ngoài ra, quy định về mức hỗ trợ học phí, đào tạo nâng cao trình độ, chuyển đổi nghề còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đặc biệt, thiếu vắng các danh mục nghề đào tạo đối với các dạng tật, danh mục đối với các cơ sở đăng ký đào tạo nghề cho trẻ em khuyết tật…

Thứ tư, quy định về mức bảo trợ xã hội cho trẻ em khuyết tật chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay.

Pháp luật hiện hành quy định mức chuẩn để xác định mức trợ cấp xã hội hàng tháng là 270.000 đồng (hệ số 1). Khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi thì mức chuẩn trợ cấp cũng sẽ thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của từng đối tượng bảo trợ xã hội. Trong khi đó, hiện nay mức lương tối thiểu chung áp dụng tính chế độ bảo hiểm xã hội, tính mức lương cho cán bộ, công chức, viên chức là 1.300.000 đồng. Nếu căn cứ vào mức tiền lương tối thiểu như hiện nay, thì rõ ràng sự thay đổi mức trợ cấp cho trẻ em khuyết tật hưởng bảo trợ xã hội chưa đáp ứng được tình hình hiện nay. Điều này dẫn đến sự bất hợp lý giữa mức thụ hưởng của trẻ em khuyết tật và sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội.

Thứ năm, cơ chế đảm bảo việc thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật chưa đáp ứng yêu cầu.

Thực tế thực hiện các cơ chế bảo vệ quyền của trẻ em khuyết tật cho thấy, cơ chế thúc đẩy, bảo vệ và phòng ngừa để nâng cao hiệu quả thực thi quyền của trẻ em khuyết tật chưa được chú trọng. Đặc biệt là cơ chế phòng ngừa thông qua các kênh tuyên truyền, truyền thông, tư vấn, thông tin, tập huấn… chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em khuyết tật hiện nay.

Thứ sáu, chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm quyền của trẻ em khuyết tật chưa tương xứng với yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em khuyết tật.

Pháp luật quy định trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷluật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự[14]. Tuy nhiên, khi cóhành vi vi phạm pháp luật về quyền của trẻ em khuyết tật xảy ra thì việc áp dụng chế tài lại nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, gây rất nhiều khó khăn cho các chủ thể trong quá trình áp dụng.

            Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng và hiệu quả thực thi quyền của trẻ em khuyết tật, chúng ta cần hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền trẻ em khuyết tật nhằm sớm khắc phục những hạn chế nêu trên. Đồng thời, cần chú trọng việc xây dựng một cách có hiệu quả các cơ chế thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật; đẩy mạnh cơ chế bảo vệ thông qua các cơ quan quản lý về trẻ em khuyết tật; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý trong bảo đảm việc thực hiện quyền của trẻ em khuyết tật kết hợp với cơ chế phòng ngừa, thường xuyên tuyên truyền và tập huấn quyền của trẻ em khuyết tật./.                              

 

________________________________________

[1] Điều 1 Công ước LHQ về Quyền trẻ em.

[2] Điểm 2 Bản quy tắc Tiêu chuẩn tối thiểu của tổ chức LHQ về áp dụng pháp luật người chưa thành niên được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 29/11/1985.

[3] Bản quy tắc của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 14/12/1990.

[4] Trần Thắng Lợi ( 2012), Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế.

[5] Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự.

[6] Điều 1 Luật Trẻ em.

[7] Đào Mộng Điệp, Thực trạng và định hướng nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về người khuyết tật tại Trường Đại học Luật Huế, Hội thảo khoa học “Chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu pháp luật người khuyết tật trong các cơ sở đào tạo luật”, Đại học Luật Hà Nội, 2015.

[8] Đào Mộng Điệp, Thực trạng và định hướng nghiên cứu, giảng dạy pháp luật về người khuyết tật tại Trường Đại học Luật Huế, tlđd.

[9] Nguyễn Trung, Giảng dạy ngoại khoá Luật Người khuyết tật Việt Nam – Cảm nghĩ của một cộng tác viên, Tạp chí Luật học, 10/2013.

[10] Điều 1 Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006.

[11] Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948; Công ước về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966; Tuyên bố về Quyền của những người thiểu năng tâm thần năm 1971; Tuyên bố về Quyền của người khuyết tật năm 1975; Các nguyên tắc về bảo vệ người bị thiểu năng tâm thần và tăng cường chính sách sức khoẻ tâm thần năm 1991; Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hoá các cơ hội cho người khuyết tật năm 1993; Công ước của LHQ về Quyền của người khuyết tật năm 2006; Công ước số 100 về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một số công việc có giá trị ngang nhau năm 1951; Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp năm 1958; Công ước số 159 về Phục hồi chức năng lao động và việc làm của người khuyết tật năm 1983; Bản Quy tắc thực hành trong quản lý người khuyết tật tại công sở năm 2002…

[12] Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Người khuyết tật năm 2010, Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Giáo dục và nghề nghiệp… và các nghị định hướng dẫn thi hành để tạo hành lang pháp lý cho trẻ em khuyết tật được bảo vệ và thực thi có hiệu quả quyền của mình trên thực tế.         

[13] Xem thêm Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Tài liệu một số kiến thức pháp luật về quyền con người dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật, Nguyễn Duy Lãm, Nguyễn Thị Tố Nga (CB), Bộ Tư pháp, 2012; Vũ Ngọc Bình, LHQ và pháp luật quốc tế về quyền con người , http://www.crights.org.vn/home.asp?id-107&langid=1.

[14] Điều 105 Luật Trẻ em.

Đào Mộng Điệp, TS. Khoa Luật Kinh tế, Đại học Luật Huế; Phan Vĩnh Tuấn Anh, Đại học Luật Huế.