Cùng với chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, chính sách hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với một số đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, đã từng bước được ban hành, triển khai trên thực tế. Chính sách này về cơ bản đã thể hiện được đúng tinh thần của Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD, Điều 28) và Hiến pháp Việt Nam năm 2013 (Điều 59) nhằm đưa ra những biện pháp điều chỉnh, hỗ trợ cần thiết đảm bảo quyền về hỗ trợ mức sống và phúc lợi thỏa đáng của người khuyết tật, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành pháp luật – thước đo tính hiệu lực, hiệu quả, hợp lý và giá trị của chính sách hỗ trợ này cho thấy vẫn còn một số vấn đề vướng mắc, bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.
1. Điểm sáng trong chính sách
Để hỗ trợ cải thiện đời sống, bảo đảm quyền an sinh của người khuyết tật trong thời gian mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ - khoảng thời gian khó khăn với họ cả về vấn đề tinh thần và vấn đề tài chính, chế độ hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với một bộ phận người khuyết tật ở các mức độ nặng và đặc biệt nặng khi đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi đã được ghi nhận ngay trong “đạo luật gốc” về người khuyết tật - Luật Người khuyết tật năm 2010 (điểm c khoản 2 Điều 44). Chính sách này đã được Chính phủ quy định chi tiết và triển khai thực hiện kể từ năm 2012 đến nay, qua các văn bản: Nghị định số 28/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật (Điều 17) và Nghị định số 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội (khoản 2 Điều 20).
Căn cứ các quy định trên đây, người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng khi mang thai và/hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi sẽ được Nhà nước hỗ trợ một khoản kinh phí chăm sóc hàng tháng, song song với khoản trợ cấp xã hội hàng tháng (nếu có). Như vậy, ngoại trừ chế độ hỗ trợ khi mang thai dành cho phụ nữ, trường hợp nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi thì không chỉ người khuyết tật nữ mà cả người khuyết tật nam cũng thuộc diện được hưởng hỗ trợ từ Nhà nước. Đây là một quy định được đánh giá là tiến bộ, không chỉ tạo điều kiện cho người khuyết tật nam có điều kiện chăm sóc vợ, con tốt hơn mà còn góp phần thực hiện bình đẳng giới về quyền an sinh xã hội, về nghĩa vụ gia đình. Tuy nhiên, do mục đích của chính sách này là nhằm hỗ trợ một phần thu nhập nhằm chăm sóc thai sản, con nhỏ tốt hơn và cũng đảm bảo tính công bằng, trường hợp cả vợ và chồng đều thuộc diện hưởng chế độ hỗ trợ kinh phí chăm sóc này thì chỉ được hưởng một suất hỗ trợ.
Về mức hỗ trợ cụ thể có sự không đồng đều mà phụ thuộc vào tình trạng thai sản, vào số lượng con nhỏ mà người khuyết tật đang nuôi dưỡng và mức chuẩn trợ giúp xã hội. Đối với người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi một con dưới 36 tháng tuổi hưởng hệ số 1,5 nhân mức chuẩn trợ giúp xã hội. Người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai và nuôi một con dưới 36 tháng tuổi hoặc nuôi hai con dưới 36 tháng tuổi trở lên hưởng hệ số 2,0 nhân mức chuẩn trợ giúp xã hội. Trường hợp người khuyết tật thuộc diện hưởng các hệ số khác nhau thì chỉ được hưởng một hệ số cao nhất. Hiện nay, mức chuẩn trợ giúp xã hội tối thiểu chung 360.000 đồng/tháng đang được áp dụng tại 49 tỉnh, thành; tại 14 tỉnh, thành còn lại, mức chuẩn trợ giúp xã hội được nâng cao hơn so với mặt bằng chung, thấp nhất là 380.000 đồng/tháng (Hà Giang), cao nhất là 500.000 đồng/tháng (Hải Phòng, Quảng Ninh)[1]. Nói cách khác, một người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng khi mang thai hoặc nuôi một con dưới 36 tháng tuổi, tùy thuộc vào địa bàn cư trú, có thể được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng ở mức tối thiểu là 540.000 đồng/tháng, tối đa là 750.000 đồng/tháng. Tương tự, một người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng khi mang thai và nuôi một con dưới 36 tháng tuổi hoặc nuôi hai con dưới 36 tháng tuổi trở lên có thể được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng ở mức tối thiểu là 720.000 đồng/tháng, tối đa là 1.000.000 đồng/tháng, tùy thuộc vào địa bàn cư trú. Với khoản hỗ trợ kinh phí chăm sóc này cùng với trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người khuyết tật (nếu có), một người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai và/hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi mỗi tháng có thể được nhận tối thiểu từ 1.080.000 đồng/tháng trở lên đến hơn 2 triệu đồng/tháng, gần như cao gấp đôi, thậm chí gấp ba, bốn lần mức hưởng trợ cấp xã hội thông thường đối với người khuyết tật. Đây có thể được xem là một khoản hỗ trợ không nhỏ để cải thiện thêm một bước đời sống của người khuyết tật và gia đình trong khoảng thời gian này.
Bên cạnh chính sách chung của cả nước, đến nay đã có trên 10 tỉnh, thành phố ban hành chính sách trợ cấp thêm cho trẻ em (bao gồm trẻ dưới 36 tháng tuổi) là con của người khuyết tật trong một số trường hợp nhất định, thông qua đó chính là hỗ trợ cha, mẹ các cháu[2]. Trong đó, một số địa phương chỉ hỗ trợ đối với trẻ em có cả cha và mẹ là người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn, chẳng hạn như: Đều là người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng; hoặc, đều đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng; có thu nhập mức chuẩn nghèo hoặc thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình…[3] Một số địa phương khác, bên cạnh đối tượng trên, còn nới rộng chính sách hỗ trợ đối với cả trường hợp trẻ em chỉ có cha hoặc mẹ là người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng nếu rơi vào hoàn cảnh khó khăn như: thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; hoặc, người cha/mẹ còn lại trong trong tình trạng không thể nuôi dưỡng, chăm sóc con nhỏ (chết, bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật; đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội; đang chấp hành án phạt tù tại trại giam…)[4]. Mức hỗ trợ cụ thể cũng có sự khác nhau giữa các tỉnh, thành, dao động từ 360.000 đồng/tháng đến 1.100.000 đồng/tháng. Khoản trợ cấp thêm này cùng với trợ cấp xã hội hàng tháng, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng của cha, mẹ là khoản hỗ trợ không nhỏ nhằm giúp người khuyết tật có con nhỏ vơi bớt những khó khăn, có điều kiện để chăm sóc trẻ và chính bản thân mình tốt hơn.
2. Vấn đề đặt ra từ quá trình thực thi chính sách và gợi ý giải pháp tháo gỡ
Có thể nói, chính sách về hỗ trợ mức sống đối với người khuyết tật, trong đó có hỗ trợ người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, về tổng thể được xem là tương đối toàn diện, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước tiếp cận xu hướng thế giới và đảm bảo sự tương thích với CRPD. Triển khai trên thực tế, mỗi năm, Nhà nước đã hỗ trợ trực tiếp cho khoảng hàng trăm người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng khi mang thai và/hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Theo số liệu gần nhất, năm 2023 có 288 người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hưởng khoản hỗ trợ kinh phí chăm sóc này (gồm có 185 người hưởng hệ số 1,5; 103 người hưởng hệ số 2,0)[5]. Ngoài ra, trong vài năm trở lại đây, nhiều người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đã được hỗ trợ gián tiếp thông qua trợ cấp thêm đối với con nhỏ (nằm trong số 68.317 đối tượng mở rộng theo chính sách riêng của địa phương)[6]. Những con số trên đây, cùng với số lượng 1.612.783 đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng dành cho người khuyết tật, đã phần nào thể hiện những nỗ lực không ngừng của nhà nước ta trong quá trình từng bước đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người khuyết tật về thu nhập, mức sống tối thiểu và tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Chính sách này đã đi vào cuộc sống trong nhiều năm qua, được nhân dân đồng tình, đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực thi chính sách vẫn còn một số vấn đề cần giải quyết. Mặc dù chưa có con số thống kê chính thức về tỷ lệ người khuyết tật được hưởng hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng trong tổng số người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, song qua thực tiễn hoạt động, chúng tôi nhận thấy một thực trạng là: Vẫn còn không ít người khuyết tật chưa được đảm bảo quyền của họ trong việc được Nhà nước hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng khi mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Một số người khuyết tật nữ nặng/đặc biệt nặng không được hỗ trợ kinh phí chăm sóc khi mang thai mà chỉ được nhận hỗ trợ khi nuôi con nhỏ. Thậm chí, một số ít người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật nam có con dưới 36 tháng tuổi, dù đủ điều kiện nhưng vẫn bị từ chối giải quyết chế độ hỗ trợ do công chức Văn hóa – xã hội cấp xã không nắm rõ quy định pháp luật. Tình trạng người khuyết tật nhận khoản hỗ trợ kinh phí chăm sóc khá muộn khi con nhỏ đã gần đủ 36 tháng tuổi vẫn còn diễn ra… Những bất cập, hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân từ cơ chế thực thi, nội dung chính sách như sau:
Thứ nhất, bộ máy thực thi chính sách ở cơ sở vẫn còn một số hạn chế nhất định.
Cùng với với chủ trương cải cách thể chế hành chính, sắp xếp nhân sự khiến cho cán bộ phụ trách công tác bảo trợ xã hội ở cấp xã trong thời gian qua có nhiều thay đổi, bên cạnh những điểm tích cực còn có những hệ lụy nhất định. Trước hết, việc công chức Văn hóa – xã hội cấp xã thường xuyên thay đổi do công tác luân chuyển, lại phải kiêm nhiệm quá nhiều công việc từ nhiệm vụ của ngành lao động - thương binh và xã hội đến các lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, thanh niên… dẫn đến công tác theo dõi, cập nhật thông tin, quản lý tình hình biến động nhân thân của đối tượng để tham mưu cấp trên trực tiếp trong việc thực hiện/điều chỉnh hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng tại một số địa phương có lúc còn chưa chính xác, kịp thời. Hơn nữa, công chức Văn hóa - xã hội cấp xã không nhất thiết phải được đào tạo từ ngành luật mà có thể chỉ cần tốt nghiệp từ ngành đào tạo liên quan đến nhiệm vụ văn hóa – xã hội (chẳng hạn thể dục thể thao, du lịch, xã hội học…). Dù đã được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng một số cán bộ vẫn còn thiếu kiến thức chuyên môn, chưa nắm vững quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo trợ xã hội, do vậy, có sự nhầm lẫn chế độ hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với người khuyết tật mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi với các chế độ khác (chẳng hạn chế độ đơn thân nghèo đang nuôi con) hoặc cá biệt, không biết đến chế độ này. Điều này đã dẫn đến vẫn còn tình trạng một số ít người khuyết tật khi đề nghị giải quyết chế độ thì bị từ chối thẳng thừng hoặc phải trải qua thủ tục lằng nhằng và đến khi được giải quyết thì con nhỏ đã gần đủ 36 tháng tuổi.
Với vai trò là “cầu nối” để đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống, việc chính sách trợ giúp xã hội nói chung, chính sách hỗ trợ người khuyết tật trong thời gian thai sản, nuôi con nhỏ có được thực hiện hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn vào nhận thức trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức Văn hóa – xã hội cấp xã. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần phải duy trì sự ổn định của đội ngũ công chức này, hạn chế việc thay đổi, trong trường hợp có sự biến động về công tác nhân sự cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức để tiếp cận công tác lao động - thương binh và xã hội một cách kịp thời, xuyên suốt. Đồng thời, tăng cường tổ chức nhiều lớp tập huấn nghiệp vụ, hội nghị giao ban, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ trợ giúp xã hội trên các địa bàn. Cần chú trọng khuyến khích công chức Văn hóa – xã hội cấp xã tự học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là tinh thần trách nhiệm và lòng tâm huyết với nghề; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị liên quan (công chức Tư pháp - hộ tịch cấp xã; trưởng thôn…) nắm bắt tình hình đời sống, sự biến động nhân thân của người khuyết tật trên địa bàn để kịp thời tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp xã, tránh bỏ sót hoặc chậm trễ trong việc giải quyết chế độ hỗ trợ cho người khuyết tật đủ điều kiện thụ hưởng.
Thứ hai, vẫn còn không ít người khuyết tật chưa biết đến các quyền của mình trong lĩnh vực trợ giúp xã hội trong khi công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn chưa thực sự hiệu quả. Thực tế cho thấy, việc triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về người khuyết tật có nơi, có lúc còn chưa đồng bộ, chưa được đầu tư nguồn lực tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; chưa được tiến hành thường xuyên, nhiều địa phương thường chỉ tập trung tổ chức vào thời điểm Luật hoặc văn bản pháp luật mới ban hành hay vào các Ngày Người khuyết tật Việt Nam (18/4) và Ngày quốc tế Người khuyết tật (03/12). Đối tượng tuyên truyền phổ biến còn hạn hẹp, chưa phổ quát, mới chỉ tập trung ở các khu đô thị, còn các khu vực nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa còn hạn chế. Điều này dẫn đến còn không ít người khuyết tật chưa nắm rõ các quyền của họ trong lĩnh vực trợ giúp xã hội, đặc biệt là khoản hỗ trợ khi mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Nhiều người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng khi biết đến chính sách này thì con nhỏ đã gần 36 tháng tuổi, thậm chí quá tuổi để được hỗ trợ, trong khi đó, đây là chế độ hỗ trợ từ khi có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện mà không có chế độ truy lĩnh khiến cho họ chịu thiệt thòi trong việc hưởng quyền của mình.
Bởi vậy, việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đến người khuyết tật trong các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực trợ giúp xã hội một cách thường xuyên, sâu rộng là rất cần thiết để người khuyết tật nắm được điều kiện, hồ sơ, thủ tục, thời gian hưởng khoản hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng từ đó chủ động liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để giải quyết chế độ một cách kịp thời. Trong đó, các hình thức tuyên truyền, phổ biến truyền thống như qua hệ thống Đài truyền thanh, tại các cuộc họp ở tổ dân phố, khu dân cư, các buổi sinh hoạt đoàn thể… cần phải được điều chỉnh phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật (đặc biệt là người khuyết tật nghe, nói). Bên cạnh đó, cần phải khuyến khích và tăng cường các hình thức tuyên truyền, phổ biến trên phương tiện công nghệ thông tin phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật, như ứng dụng phần mềm đọc cho người khuyết tật nhìn, video có phụ đề ngôn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật nghe, nói...
Thứ ba, bất cập từ quy định pháp luật hiện hành: Không có chế độ truy lĩnh đối với khoản hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng.
Khác với khoản trợ cấp xã hội hàng tháng đối với người khuyết tật, thời gian hưởng hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng được tính kể từ tháng Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký quyết định (điểm đ khoản 1 Điều 8 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP). Quy định này một mặt nào đó đã dẫn đến những bất lợi cho đối tượng thụ hưởng chính sách này trên thực tế. Mặc dù hiện nay, thủ tục tiếp nhận, rà soát hồ sơ thực hiện hỗ trợ kinh phí chăm sóc tại Ủy ban nhân dân cấp xã để trình lên cấp huyện đã được đơn giản hóa một bước với thời gian không dài (12 ngày làm việc, trường hợp có khiếu nại cộng thêm 10 làm việc). Song trên thực tế, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, quãng thời gian Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã gửi Phòng Lao động – thương binh và xã hội thường lâu hơn đáng kể so với quy định nói trên[7]. Thực tiễn hoạt động của chúng tôi cho thấy, có những trường hợp do người khuyết tật không nắm rõ quy định pháp luật hoặc do công chức Văn hóa – xã hội cấp xã không rà soát, cập nhật biến động thân nhân danh sách những người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng trên địa bàn thường xuyên, nên không hiếm những trường hợp người khuyết tật nữ không được hưởng hỗ trợ khi mang thai mà chỉ được hưởng hỗ trợ khi nuôi con nhỏ, có trường hợp con nhỏ đã gần 36 tháng tuổi thì người khuyết tật mới được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng vỏn vẹn vài tháng còn lại mà không được truy lĩnh cho thời gian trước đó. Điều này không chỉ gây thiệt thòi cho người khuyết tật mà về khía cạnh nào đó còn chưa thực sự đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng trợ giúp xã hội trong việc tiếp cận sự hỗ trợ của Nhà nước.
Chính vì vậy, nên chăng cần phải thay đổi quy định về mốc thời gian được hưởng khoản hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi là kể từ tháng đối tượng đủ điều kiện hưởng hỗ trợ nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi hợp pháp cho những đối tượng này. Như vậy, nếu trên thực tế thời gian thực hiện các thủ tục hành chính để ra quyết định thực hiện hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng có bị kéo dài hơn so với quy định của pháp luật từ phía cơ quan có thẩm quyền (vì bất kỳ lý do nào), thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tượng thụ hưởng chính sách, nếu vận dụng đúng quy định pháp luật.
Nhìn chung, chính sách hỗ trợ người khuyết tật nặng/đặc biệt nặng khi đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi là một trong những điểm sáng đáng ghi nhận trong việc đảm bảo quyền hỗ trợ mức sống thỏa đáng của người khuyết tật, tạo điều kiện để họ có nguồn lực cải thiện đời sống vật chất, tinh thần trong thời gian khá khó khăn này. Tuy nhiên, những hạn chế, bất cập trong cơ chế thực thi chính sách vẫn đang là “bài toán” cần có lời giải thiết thực hơn nhằm đảm bảo người khuyết tật tiếp cận hơn với quyền được hưởng mức sống tối thiểu và tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhờ đó, người khuyết tật được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cộng đồng./.
[1] Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2023), Báo cáo Tổng kết việc thi hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, tr.03.
[2] Theo tìm hiểu của tác giả, một số tỉnh, thành phố có chính sách trợ cấp cho trẻ em là con của người khuyết tật bao gồm: các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh; các tỉnh Bắc Kạn, Bình Thuận, Cà Mau, Đắk Nông, Đồng Nai, Kon Tum, Ninh Bình, Quảng Nam, Sóc Trăng.
[3] Xem thêm: Nghị quyết 09/2021/NQ-HĐND thành phố Hà Nội; Nghị quyết 10/2021/NQ-HĐND tỉnh Sóc Trăng; Nghị quyết 68/2021/NQ-HĐND tỉnh Kon Tum; Nghị quyết 09/2022/QĐ-HĐND tỉnh Đồng Nai; Nghị quyết 20/2022/NQ-HĐND tỉnh Bắc Kạn; Nghị quyết 09/2023/NQ-HĐND tỉnh Đắk Nông; Nghị quyết 35/2023/QĐ-HĐND Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Xem thêm: Nghị quyết 05/2021/NQ-HĐND tỉnh Cà Mau; Nghị quyết 09/2021/NQ-HĐND thành phố Hà Nội; Nghị quyết 43/2021/NQ-HĐND tỉnh Quảng Nam; Nghị quyết 05/2022/NQ-HĐND Bình Thuận; Nghị quyết 09/2022/QĐ-HĐND tỉnh Đồng Nai; Nghị quyết 07/2023/NQ-HĐND tỉnh Ninh Bình; Nghị quyết 09/2023/NQ-HĐND tỉnh Đắk Nông.
[5] Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, tlđd, Phụ lục 6, tr.16.
[6] Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, tlđd, tr.03.