Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

Công tác nữ và bước tiến của bình đẳng giới ở Việt Nam

  • Thực hiện: Administrator
  • 22/09/2017

Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Trong 30 năm đổi mới, công tác phụ nữ của Đảng đạt bước tiến quan trọng, góp phần  nâng cao bình đẳng giới ở Việt Nam và sự phát triển của đất nước nói chung. Tuy vậy, tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác phụ nữ là một yêu cầu cơ bản và cấp bách hiện nay.

1. Quá trình đổi mới nhận thức về công tác phụ nữ

Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, nhiều chủ trương của Đảng về công tác quần chúng nói chung, công tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ nói riêng được ban hành, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới.

Nghị quyết số 8B - NQ/TW ngày 27/3/1990 của Ban Chấp hành Trung ương Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng,chỉ đạo các cấp tăng cường mối quan hệ Đảng - nhân dân, xác định công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị.

Tiếp đó, Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Đảng khẳng định “Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình. Đường lối giải phóng phụ nữ phải được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước”(1), xácđịnh mục tiêu của công tác phụ nữ là “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, có kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu”(2).

Năm 2007, nhằm tiếp tục phát huy kết quả đạt được, tại Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Chính trị khẳng định “phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới”(3).

Công tác phụ nữ được khẳng định rõ hơn “Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”(4) theo hướng “phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước”(5). Trên cơ sở đó, Đảng định hướng nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới; xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự tiến bộ của phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH.

Hội Liên hiệp phụ nữ, từ “là tổ chức đại diện cho lợi ích của phụ nữ, là trung tâm tập hợp đoàn kết phụ nữ Việt Nam”(6)đã nâng lên là nòng cốt trong công tác phụ nữ.  Cùng với các giải pháp “đổi mới nội dung, tổ chức và phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam” (1993)(7), Đảng đã xác định việc “xây dựng, củng cố Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ” (2007)(8).

Đại hội XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định quan điểm và chủ trương về công tác phụ nữ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiệm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ”.

Từ nhận thức phụ nữ là đối tượng vận động đến phụ nữ có vai trò chủ thể là bước tiến quan trọng trong đổi mới tư duy về công tác vận động quần chúng, đề cao tinh thần chủ động, tích cực.

2. Pháp luật, chính sách về công tác phụ nữ

Quan điểm của Đảng về phụ nữ được thể chế hóa, chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện. Hầu hết các quy định bảo đảm quyền bình đẳng với tư cách là công dân tham gia, đóng góp và hưởng thành quả trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quy định pháp luật quan tâm đến bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực lao động, giáo dục và kinh tế, bởi đó là động lực để giải quyết các vấn đề xã hội trong việc bảo đảm bình đẳng giới thực chất.

Hệ thống luật pháp, chính sách ngày càng được hoàn thiện. Bộ luật Lao động (năm 2002) sửa đổi, bổ sung những nội dung liên quan đến chính sách đối với lao động nữ, bao gồm: bảo hiểm xã hội, tiền lương, bảo hộ lao động, đào tạo nghề. Luật Bình đẳng giới (2007)(9) thể hiện cam kết cao nhất của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện Cương lĩnh hành động Bắc Kinh (1995) vì Bình đẳng giới, hòa bình và phát triển; Việt Nam đã nội luật hóa Công ước Liên Hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới (2011-2020). Đã cụ thể hóa mục tiêu thứ 3 về bình đẳng giới trong mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc.

Bên cạnh chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực cơ bản nhất, Việt Nam cũng quan tâm các vấn đề đặc thù, như: ban hành Pháp lệnh về phòng, chống mại dâm (2003); Chương trình hành động, phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em; và có những biện pháp hỗ trợ nạn nhân. Quốc hội thường xuyên giám sát về bình đẳng giới; Chính phủ có báo cáo hàng năm về kết quả thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.

Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế, như Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW, năm 1981), ký các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với 12 nước, trong đó có Lào, Trung Quốc và Campuchia; tham gia các thoả thuận và tuyên bố quốc tế về phòng, chống mua bán người; là thành viên tích cực của các diễn đàn đa phương như Tiến trình Tư vấn khu vực châu Á - Thái Bình Dương; Tiến trình Bali về phòng, chống mua bán người và tội phạm xuyên quốc gia; Tuyên bố chung ASEAN về phòng, chống mua bán người...

Những nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc hoạch định và triển khai các chủ trương, chính sách đã tạo bước chuyển mạnh mẽ trong bảo đảm các quyền bình đẳng giới; quyền được làm việc, được hưởng lương; quyền sở hữu, thừa kế và quyền lựa chọn bạn đời khi kết hôn hoặc ly hôn,...

Trong quá trình đó, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam vận động nữ giới thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, vừa hỗ trợ nữ giới phát huy vai trò, khả năng; tuyên truyền về bình đẳng giới trong xã hội nhằm chia sẻ gánh nặng công việc gia đình để phụ nữ phát triển. Hoạt động đó góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Thể hiện vai trò nòng cốt, tiên phong trong các hoạt động bình đẳng giới. Hội phụ nữ tập hợp rộng rãi nguyện vọng yêu cầu các tầng lớp phụ nữ đề xuất các chính sách phù hợp với phụ nữ, kết hợp giữa vận độngvà chăm lo; kết hợp giữa phổ biến kién thức pháp luật với nâng cao ý thức trách nhiệm của phụ nữ. Phần lớn phụ nữ tự ý thức về trách nhiệm của bản thân, giải quyết hài hòa, cân đối các công việc gia đình và xã hội.

3. Công tác phụ nữ đạt những thành tựu quan trọng

Nhận thức xã hội về bình đẳng giới được nâng lên. Phụ nữ được tôn trọng và bình đẳng hơn, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được nâng cao. Bình đẳng giới của Việt Nam được Liên Hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các Mục tiêu thiên niên kỷ.

Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ đóng góp tích cực vào xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách; cử đại diện xứng đáng trong các cơ quan dân cử, cơ quan quản lý nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Số lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo ngày càng tăng, nhất là ở những vị trí cấp cao, như: ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, bộ trưởng, thứ trưởng và trong chính quyền các cấp... Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2015-2020 tăng hơn nhiệm kỳ 2010-2015: cấp ủy viên là nữ cấp xã chiếm 19,69% (tăng 1,59%); cấp ủy viên là nữ ở cấp huyện chiếm 14,3% (tăng 0,3%); ở cấp tỉnh, nữ trong cấp ủy chiếm 13,3% (tăng 1,9%), trong Ban Thường vụ là 10,75%; có 3/63 tỉnh, thành phố có nữ Bí thư, chiếm 4,76%; nữ Phó Bí thư có 17 người chiếm 10,9%. Ở cấp Trung ương có 3 nữ là Ủy viên Bộ Chính trị chiếm 15,7%; có 20/200 nữ Ủy viên chiếm 10%(10).

Trong chính quyền, ở cấp Trung ương có 1 nữ Phó Chủ tịch nước; nữ Bộ trưởng 2/22 (9%); Thứ trưởng 13 (9%, tăng so với khoá trước 3,6%); nữ vụ trưởng của cơ quan bộ và ngang bộ là 9,9%, nữ phó vụ trưởng là 20,7%.

Ở cấp tỉnh có 1/63 Chủ tịch UBND là nữ (1,6%), nữ Phó Chủ tịch UBND chiếm 10,4%; nữ trưởng ngành cấp tỉnh là 10,5%.

Cấp huyện, nữ Chủ tịch UBND là 3,6% (giảm 1,65% so với nhiệm kỳ trước); nữ Phó Chủ tịch UBND là 14,5% (tăng 6% so với nhiệm kỳ trước); lãnh đạo nữ trưởng ngành đạt 13,9%.

Cấp xã, nữ Chủ tịch UBND là 3,42%, nữ Phó Chủ tịch UBND là 8,8%(11).

Trong cơ quan dân cử: Tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội khóa XIII là 24,2% (giảm 1,36% so với khóa XII); nữ đại biểu Hội đồng nhân cấp tỉnh là 25,17%; cấp huyện là 24,62%; cấp xã là 21,71%(12).  Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII, ngày 31/3/2016, lần đầu tiên trong lịch sử, Quốc hội có nữ Chủ tịch đó là đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân 62 tuổi (sinh năm 1954), trúng cử với số phiếu 95,5%. Đây là mốc son trong lịch sử nữ quyền ở Việt Nam vì đã có phụ nữ được nắm giữ một trong 4 vị trí đứng đầu hệ thống chính trị.

Trong lĩnh vực kinh tế - lao động, hơn 50% dân số, phụ nữ đang tham gia hầu hết các ngành nghề, công việc, đóng góp lớn vào thành tựu sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Nhiều phụ nữ giữ cương vị chủ chốt trong hoạt động quản lý doanh nghiệp. Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên với việc thực hiện pháp luật, quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở và tài sản. Cơ hội tiếp cận tín dụng của phụ nữ được cải thiện.

Phụ nữ tham gia lực lượng lao động ngày càng nhiều hơn trong khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành, lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ thuật, công nghệ cao, vị thế việc làm của lao động nữ cũng có sự thay đổi tích cực, nhóm lao động làm công ăn lương tăng mạnh trong cơ cấu phân bố lao động (40% nữ)(13).

Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, đội ngũ nữ trí thức Việt Nam trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Nhiều tập thể và cá nhân các nhà khoa học nữ có công trình nghiên cứu được nhận giải thưởng VIFOTEC của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Bằng lao động sáng tạo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: đặc biệt trí thức có giải thưởng riêng là Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam, Giải thưởng Kôvalépxkaia... Nhiều nhà khoa học nữ đã chủ động lập ra các hội nghề nghiệp, các câu lạc bộ, trung tâm nghiên cứu, tư vấn để phát huy trí tuệ, tài năng của mình đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực giáo dục, nhiều nữ giới các vùng miền đã tích cực tham gia học tập bằng nhiều hình thức để nâng cao trình độ và luôn chăm lo đến việc học tập của con cái, góp phần tạo nên chuyển biến tích cực trong nền giáo dục nước nhà. Phụ nữ đóng góp quan trọng vào xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Đến năm 2011, tỷ lệ nữ biết đọc, biết viết đạt 92%; 80% trẻ em gái trong độ tuổi ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, học tiểu học và trung học cơ sở. Nữ sinh viên các trường đại học và cao đẳng chiếm trên 50%; nữ thủ khoa các kỳ tuyển sinh và tốt nghiệp đại học chiếm 61,6%. Đội ngũ nữ trí thức tiếp tục tăng cả về số lượng, chất lượng và được trẻ hóa.

Trong ngành giáo dục, tỷ lệ giảng viên nữ tăng đồng đều trong giai đoạn 2007-2012 và cao hơn ở nam giới. Năm học 2011-2012, có 16,8% nữ phó giáo sư, 25% nữ tiến sĩ, 47,1% nữ thạc sĩ(14). Ở cấp đại học, 47% giảng viên là nữ. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, có 38,6% nữ phó giáo sư, 30,9% nữ tiến sĩ và 54,6% nữ thạc sĩ(15).

Trong xây dựng gia đình, phụ nữ kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, phòng chống tệ nạn xã hội từ gia đình. Tuổi thọ bình quân của nữ thường cao hơn nam, trung bình 4 - 5 năm, năm 2011 là73,2tuổi. Tỷ lệ tử vong bà mẹ giảm xuống còn 67/100.000 trẻ sơ sinh sống(16). 

Phụ nữ có ý thức cao trong thực hiện quy mô gia đình ít con gắn với nâng cao chất lượng cuộc sống; thực hiện các quyền và động viên các thành viên gia đình thực hiện quyền và trách nhiệm cá nhân; quan tâm đặc biệt đến trẻ em và người cao tuổi. Xây dựng gia đình văn hoá.

4. Một số vấn đề đặt ra

Trước yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, công tác phụ nữ còn nhiều hạn chế, cùng nhiều vấn đề mới đặt ra, với nhiều thách thức.

Về cơ hội việc làm và thu nhập, lao động nữ trong nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp, việc làm thiếu ổn định, điều kiện lao động không được đảm bảo; chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động chưa được thực hiện đầy đủ. Số lao động nữ nông thôn thiếu việc làm, di cư tự phát ra đô thị ngày càng tăng. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ phụ nữ nghèo còn cao; bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán lạc hậu; còn nhiều phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đơn thân, phụ nữ tàn tật có hoàn cảnh khó khăn cần được quan tâm.

Thực tiễn đời sống xã hội đang nảy sinh nhiều vấn đề liên quan trực tiếp tới phụ nữ. Phụ nữ gặp nhiều khó khăn, thách thức khi thực hiện vai trò người mẹ, người thầy đầu tiên của con người trong điều kiện xã hội và gia đình Việt Nam có nhiều thay đổi. Một số giá trị truyền thống tốt đẹp có phần bị mai một, lối sống thực dụng có xu hướng gia tăng. Bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội, buôn bán phụ nữ, trẻ em, lấy chồng nước ngoài vì mục đích vụ lợi... diễn biến phức tạp.

Báo cáo Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam (MICS) 2014(17) cho thấy số phụ nữ trong độ tuổi 15-19 kết hôn là 10,3%, tăng so với 8% tại báo cáo MICS 2011. Bên cạnh đó, có mối tương quan với giáo dục, điều kiện kinh tế và kết hôn sớm, với tỷ lệ 26% phụ nữ trong độ tuổi 15-19 từ những hộ gia đình nghèo nhất kết hôn sớm so với chỉ 2% từ những hộ gia đình khá giả. Đặc biệt, gần 30% phụ nữ dân tộc thiểu số 15-19 tuổi đã kết hôn. Đáng lưu tâm là, hơn 56% phụ nữ trong độ tuổi 15-49 và 50% phụ nữ trong độ tuổi 15-24 không có hiểu biết toàn diện về HIV/AIDS.

Trong công tác phụ nữ, việc định hướng lãnh đạo, chính sách, phương pháp công tác vận động phụ nữ còn thiếu cụ thể và sát hợp với từng nhóm đối tượng, khu vực, vùng, miền; chưa đáp ứng yêu cầu mới. Công tác vận động lao động nữ trong các thành phần kinh tế, trong các dân tộc ít người, các tôn giáo, giới trí thức chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức để có những phương thức vận động phù hợp. Đặc biệt, chính sách đối với cán bộ nữ còn bất cập.

Hoạt động của Hội phụ nữ ở nhiều nơi còn dàn trải, thiếu chiều sâu, chưa quan tâm được hết các nhóm phụ nữ, chưa toàn diện theo hướng hỗ trợ phụ nữ thực hiện vai trò “chủ thể” của mình thông qua trao quyền, tạo cơ hội để phụ nữ tự giải quyết những vấn đề của mình bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước và xã hội.

Từ thực tế công tác phụ nữ hiện nay, đặt ra một số vấn đề cần tập trung thực hiện, đó là: nghiên cứu, ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phụ nữ và công tác phụ nữđể tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động mạnh hơn trong toàn Đảng, toàn dân, Nhà nước và xã hội, góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW (2007), những vấn đề đặt ra đối với phụ nữ, công tác phụ nữ sau 30 năm đổi mới, đáp ứng vai trò quan trọng của phụ nữ và công tác phụ nữ.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phụ nữ và công tác phụ nữ. Tổ chức thực hiện nghiêm các quy định về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Bình đẳng giới. Sửa đổi, bổ sung Luật Bình đẳng giới để quy định rõ những khía cạnh liên quan đến phụ nữ, nhất là thiên chức người mẹ trong mối quan hệ với việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Sửa đổi quy định về tuổi nghỉ hưu của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động phù hợp với tình hình thực tế. Tuổi nghỉ hưu có mối quan hệ rất hữu cơ và chặt chẽ với tuổi thực hiện nhiều chính sách khác có liên quan như tuổi đề bạt, bổ nhiệm; tuổi đào tạo, bồi dưỡng; chính sách lương hưu.

Sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các chính sách quan tâm hơn đến gia đình theo hướng cụ thể hóa quy định tại Khoản 3 Điều 60 Hiến pháp 2013 “tạo môi trường xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân” bằng các chính sách phù hợp, trong đó đặc biệt quan tâm vai trò của phụ nữ với tư cách người mẹ có tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phụ nữ; về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với phụ nữ và công tác phụ nữ, về bình đẳng giới, về hôn nhân và gia đình...;

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là người đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phụ nữ và công tác phụ nữ, nhất là các quy định liên quan đến cán bộ nữ quản lý, lãnh đạo các cấp.

Hội Phụ nữ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm trong tham mưu và thực hiện giải pháp nâng cao nhận thức bình đẳng giới cho phụ nữ.Tham mưu, đề xuất chủ trương, chính sách liên quan đến cán bộ nữ. Chủ động, tích cực tham mưu, giới thiệu, tạo nguồn cán bộ nữ. Giáo dục giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam, nêu gương phụ nữ điển hình trong các lĩnh vực và phê phán những biểu hiện phân biệt đối xử với phụ nữ dưới mọi hình thức

Đối với phụ nữ và cán bộ nữ, thể hiện năng lực cá nhân; xóa bỏ tâm lý tự ti; an phận; nâng cao trách nhiệm xã hội, hỗ trợ, kèm cặp, động viên thế hệ đi sau; bảo vệ quan điểm, chính kiến trước những vấn đề đặt ra cho phụ nữ và cán bộ nữ.

PGS, TS. Trịnh Thị Hồng Hạnh - Viện Lịch sử Đảng, 

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ghi chú:

(1), (2), (6), (7) Nghị quyết số 04 - NQ/TW ngày

12-7-1993 của Bộ Chính trị.

(3), (4), (5), (8) Nghị quyết số 11 - NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

(9) Luật số 73/2006/QH11 của Quốc hội : Luật Bình đẳng giới, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007.

(10) Báo cáo số 08/BC-UBQG ngày 3/2/2016 của Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam về kết quả hoạt động năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2016, tr. 11-12.

(11) Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ nữ , Tạp chí Xây dựng Đảng,số 10, 2013.

(12) Phạm Thị Hải Chuyền - Bộ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội, phát biểu khai mạc Tọa đàm “Vai trò của truyền thông nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp” do Ủy ban Quốc gia về bình đẳng giới phối hợp với UNDP tổ chức tại Hà Nội, ngày 25/2/2016.

(13) Báo cáo số 1346/BC-UBXH12 ngày 11/5/2009 Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội về kết quả giám sát tình hình thực hiện bình đẳng giới và việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới.

(14), (15) Nguồn: báo cáo thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ năm 2013.

(16) Nguồn: báo cáo thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ năm 2011.

(17) http://www.unicef.org.

 

Link bài viết:

http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/37166/Cong_tac_nu_va_buoc_tien_cua_binh_dang_gioi_o_Viet_Nam