Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

Tiếp tục đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế giai đoạn 2015 – 2025

  • Thực hiện: Nguyễn Hữu Dũng
  • 15/09/2016

Trong những năm qua, chính sách trợ giúp xã hội ngày càng được hoàn thiện, mức trợ cấp xã hội liên tục tăng, đối tượng trợ giúp xã hội được mở rộng, đời sống của họ từng bước được ổn định và cải thiện hơn so với trước đây. Tuy nhiên, hệ thống trợ giúp xã hội còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là thiếu tính hệ thống, nguồn lực đầu tư eo hẹp, các mức trợ cấp chưa dựa trên cơ sở mức sống tối thiểu và độ bao phủ cũng còn thấp. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã chủ trương tiếp tục hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội trong điều kiện mới của một nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Tính tất yếu khách quan của đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2015 – 2025

Trợ giúp xã hội (TGXH) là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia để trợ giúp người nghèo, nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương ổn định cuộc sống và tái hòa nhập cộng đồng. TGXH là sự hỗ trợ bằng tiền hoặc hiện vật của chính phủ và của cộng đồng, bao gồm TGXH thường xuyên, TGXH đột xuất, khẩn cấp và chăm sóc xã hội, trên cơ sở đối tượng hưởng lợi không phải đóng góp để giúp đỡ cho cá nhân, gia đình gặp rủi ro có thể duy trì mức sống tối thiểu theo quy định của pháp luật.

Trợ giúp xã hội không chỉ là trợ cấp xã hội mà rộng hơn còn là sự từng bước bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng, hạnh phúc và phát triển của nhân dân. Đối tượng của TGXH là mọi người dân gặp rủi ro rơi vào hoàn cảnh khó khăn không tự bảo đảm được cuộc sống của bản thân ở mức tối thiểu và vươn lên hòa nhập cộng đồng.

Như vậy, TGXH là một trong những trụ cột quan trọng không thể tách rời của hệ thống an sinh xã hội. Đổi mới và phát triển hệ thống TGXH trong tổng thể hệ thống an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và dần tiếp cận với chuẩn mực quốc tế trong quá trình hội nhập là một tất yếu, khách quan.

Xu hướng chung, tiến bộ của thế giới đương đại về phát triển hệ thống TGXH là:

1- Tiếp cận TGXH dựa trên cơ sở quyền con người, nhất là đối với các nước có thu nhập trung bình cần ưu tiên chuyển dịch từ cách tiếp cận giải quyết nghèo đói sang tiếp cận theo quyền được bảo đảm an sinh xã hội, TGXH;

2 - Phát triển hệ thống TGXH không tách rời với phát triển đồng bộ hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn nhau, trong đó TGXH là tầng cuối cùng đặc biệt quan trọng và không thể thiếu để hỗ trợ người dân, nhất là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, để không một ai bị gạt ra bên lề xã hội (bị loại trừ xã hội);

3 -Thiết kế hệ thống TGXH theo vòng đời của một con người nhằm giải quyết những rủi ro, “cú sốc” khác nhau và thách thức gắn với cả cuộc đời của một con người: Thời kỳ bà mẹ mang thai và tuổi ấu thơ =>Tuổi đi học =>Tuổi thanh niên =>Tuổi lao động =>Tuổi già;

4 - Chính sách TGXH được xây dựng dựa trên cơ sở chuẩn mức sống tối thiểu bảo đảm cho mọi người dân, nhất là nhóm người nghèo, yếu thế, dễ bị tổn thương,... có thể sống như là một nhân cách;

5 - TGXH là một khoản đầu tư cho phát triển, nhất là đầu tư trợ giúp về dinh dưỡng cho bà mẹ mang thai và trẻ em nhằm phát triển nguồn nhân lực trong tương lai, trợ giúp người dân tự tạo việc làm hoặc có cơ hội việc làm, kích thích tiêu dùng thúc đẩy tăng trưởng,... và là một cấu phần thiết yếu của một nền kinh tế thị trường thành công theo hướng tăng trưởng gắn kết xã hội;

6 - Phát triển TGXH với tầm nhìn dài hạn, có tính chiến lược của quốc gia.

Đổi mới TGXH còn là một nhu cầu nội tại của Việt Nam để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách xã hội/an sinh xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã hiến định “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34). Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội/TGXH. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống”. Bởi vậy, Chính phủ giao cho Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ: “Đề án đổi mới công tác trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất” (Nghị quyết số 70/NQ-CP, ngày 1-11-2012).

Thực trạng trợ giúp xã hội ở Việt Nam hiện nay

Hệ thống TGXH ở Việt Nam đã từng bước được thể chế hóa và luôn được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Trong đó, nhất là xây dựng 6 luật, 9 nghị định và một số quyết định của Thủ tướng Chính phủ về TGXH. Đồng thời đang triển khai một số đề án lớn về TGXH, gồm: Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020 (Quyết định số 647/QĐ-TTg, ngày 26-4-2013, của Thủ tướng Chính phủ); Đề án TGXH và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 - 2020 (Quyết định số 1215/QĐ-TTg, ngày 23-7-2013); Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 (Quyết định số 1019/QĐ-TTg); Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020 (Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg, ngày 25-3-2010)...

Những mặt đã đạt được:

Thứ nhất, nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước về TGXH ngày càng rõ theo cách tiếp cận mới, có tính hội nhập hơn. Trong đó, xác định những quan điểm rất cơ bản là: Hệ thống an sinh xã hội (bao gồm cả TGXH) phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng. Chính sách/chương trình an sinh xã hội/TGXH cần ưu tiên người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa và tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội/TGXH.

Thứ hai, TGXH từng bước phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và ngày càng đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình, đánh giá cao. Hệ thống TGXH phát triển tập trung vào TGXH thường xuyên, TGXH đột xuất và phát triển các cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc các đối tượng đặc biệt khó khăn. Chính sách/chương trình TGXH được thiết kế hướng vào mục tiêu bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng cần TGXH, từng bước đáp ứng các nhu cầu cơ bản của đối tượng về thu nhập, nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, hướng nghiệp, dạy nghề...

Thứ ba, trong điều kiện nước ta còn nghèo, ngay cả trong những năm bị tác động mạnh của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngân sách nhà nước còn khó khăn, nhưng vẫn ưu tiên đầu tư cho TGXH. Nguồn ngân sách bố trí hằng năm tăng, trong đó cho TGXH thường xuyên bình quân năm khoảng 0,5% GDP, cho TGXH đột xuất khoảng 0,13% GDP. Một số địa phương (25%) tự cân đối được ngân sách đã chủ động tăng ngân sách cho TGXH trên cơ sở điều chỉnh nâng mức trợ cấp hằng tháng cao hơn mức chuẩn chung 1,2 - 2 lần. Huy động nguồn lực xã hội có xu hướng mở rộng (chiếm khoảng 15% - 20%), nhất là chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng, phát triển nghề công tác xã hội và TGXH đột xuất (11%)...

Thứ tư, tác động của chính sách/chương trình TGXH đến đối tượng hưởng lợi là tích cực. Mức TGXH không ngừng tăng, đến năm 2013 là 270.000 đồng/tháng, tăng 6 lần so với năm 2000. Đối tượng hưởng lợi chính sách/chương trình TGXH được mở rộng (6 nhóm đối tượng). Số đối tượng được hưởng trợ cấp tiền mặt hằng tháng đã tăng lên nhanh chóng, năm 2015 khoảng gần 2,7 triệu người, tăng gần 6,5 lần so với năm 2005. Hằng năm có khoảng 1,5 triệu người được TGXH đột xuất để ổn định sản xuất và đời sống. Số đối tượng được cấp thẻ bảo hiểm y tế thuộc phạm vi TGXH khoảng 27 - 28 triệu người. Hiệu quả chính sách tác động trực tiếp, tích cực đến đời sống của người hưởng lợi, giúp họ ổn định, cải thiện cuộc sống so với trước và hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng để cùng phát triển.

Thứ năm, quản lý nhà nước về TGXH được tăng cường. Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý TGXH ở Trung ương, địa phương, cơ sở được kiện toàn và đi vào hoạt động tích cực, đạt hiệu quả thiết thực. Phát huy được vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý, tổ chức triển khai của chính quyền và huy động nguồn lực xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho thực hiện chính sách/chương trình TGXH.

Những mặt còn hạn chế, bất cập:

Một là, nhận thức, quan niệm về TGXH chưa đầy đủ, chưa có tính hệ thống và chưa tiếp cận xu hướng phát triển TGXH của thế giới. Phương pháp tư duy tiếp cận chính sách, chương trình TGXH về cơ bản là theo mục tiêu đối tượng, mới chỉ tập trung ưu tiên cho nhóm yếu thế, chưa tiếp cận theo vòng đời, trên cơ sở quyền con người (theo hướng phổ quát) và bảo đảm mức sống tối thiểu; vẫn còn cơ chế “xin - cho”, coi đầu tư cho TGXH là một khoản chi phí, bao cấp, chưa thật sự coi đó là đầu tư vào con người, đầu tư cho phát triển.

Hai là, hệ thống TGXH chưa được hoàn thiện và chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng mở rộng của người dân. Trợ giúp xã hội được xây dựng còn thiếu tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện, chưa bao phủ hết đối tượng, chưa gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phúc lợi xã hội và phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản.

Ba là, các chính sách TGXH cụ thể được xây dựng chưa dựa trên cơ sở một khung chiến lược nhằm xử lý các rủi ro trong suốt cuộc đời của con người với tầm nhìn dài hạn, toàn diện. Các chính sách, chế độ TGXH được ban hành có tính chất cơi nới, chắp vá, chưa tích hợp chính sách và bị chồng chéo; chưa tách bạch giữa chính sách TGXH và chính sách giảm nghèo, chính sách xã hội; chưa gắn chặt với chính sách phát triển, phòng, tránh thiên tai, biến đổi khí hậu; chưa có chính sách khuyến khích mở rộng chăm sóc đối tượng TGXH dựa vào cộng đồng. Các quy định về thủ tục hành chính, hồ sơ và quy trình xác định, quyết định đối tượng hưởng lợi, chi trả trợ cấp xã hội còn phức tạp, gắn với tiêu chí hộ nghèo và sổ hộ khẩu nên đối tượng khó tiếp cận.

Bốn là, các mức trợ cấp xã hội chưa bảo đảm mức sống tối thiểu và độ bao phủ còn thấp. Mức chuẩn trợ cấp xã hội năm 2015 chỉ bằng 45% chuẩn nghèo khu vực nông thôn và 36% khu vực thành thị lại không được cập nhật CPI nên giá trị thực tế giảm (giá trị của mức chuẩn trợ cấp xã hội thường xuyên năm 2014 chỉ bằng 75% giá trị của năm 2007 và từ tháng 1-2015, theo điều chỉnh lên 270.000 đồng/tháng cũng mới chỉ khôi phục lại giá trị vào năm 2007). Mức độ bao phủ của TGXH thường xuyên trong cộng đồng mới đạt gần 3% dân số và 18,3 % tổng số người cần TGXH.

Năm là, hệ thống cung cấp dịch vụ TGXH chưa phát triển mạnh theo kịp nhu cầu phát triển của đối tượng và chưa phù hợp với xu hướng phát triển an sinh xã hội dựa vào cộng đồng. Các cơ sở dịch vụ TGXH chưa được quy hoạch tổng thể, dài hạn nên phát triển còn tự phát, manh mún, khép kín, thiếu về số lượng, thấp về chất lượng cung cấp dịch vụ. Mô hình tổ chức cơ sở cung cấp dịch vụ TGXH chưa chuyển mạnh sang cung cấp dịch vụ công; chưa ban hành khung giá dịch vụ TGXH; cơ sở vật chất của nhiều cơ sở dịch vụ TGXH thiếu đồng bộ, bị xuống cấp nghiêm trọng, chưa đáp ứng được yêu cầu nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng và các dịch vụ công tác xã hội cho đối tượng; chất lượng nguồn nhân lực của các cơ sở cung cấp dịch vụ TGXH còn thấp, phát triển kỹ năng công tác xã hội còn hạn chế; nghề công tác xã hội phát triển chưa mạnh.

Sáu là, nguồn lực đầu tư cho trợ giúp xã hội còn hạn chế. Ngân sách bố trí cho các chính sách/chương trình TGXH thường xuyên bình quân hằng năm mới khoảng 0,5% GDP (ở các nước tỷ lệ này thường trên 3% GDP) và TGXH đột xuất khoảng 0,13% GDP. Huy động nguồn lực xã hội cho TGXH gặp nhiều khó khăn, thiếu bền vững, chưa có cơ chế quản lý thống nhất.

Bảy là, tổ chức bộ máy quản lý TGXH chưa đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quản lý theo hướng hiện đại, hiệu lực và hiệu quả. Tổ chức bộ máy quản lý TGXH còn chồng chéo, phân tán nhiều cơ quan; chưa tách chức năng quản lý nhà nước về TGXH và chức năng cung cấp dịch vụ TGXH. Cơ chế phối hợp liên ngành chưa chặt chẽ và hiệu quả. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách TGXH chưa được thực hiện thường xuyên, còn mang tính hình thức. Hệ thống cơ sở dữ liệu về TGXH và giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách/chương trình TGXH còn thiếu.

Một số giải pháp đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2015 - 2025

Về quan điểm đổi mới:

- Đổi mới TGXH đồng bộ, toàn diện trong tổng thể hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt và có thể hỗ trợ lẫn nhau, tạo lưới an toàn có khả năng ứng phó kịp thời với xu hướng già hóa dân số nhanh, các rủi ro trong kinh tế thị trường, biến đổi khí hậu và rủi ro cá nhân khác. Coi đầu tư cho TGXH là đầu tư cho phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và tạo động lực phát triển bền vững đất nước.

- Phát triển hệ thống TGXH bền vững, góp phần bảo đảm quyền con người, lấy đối tượng là cá nhân, hộ gia đình làm trung tâm, bao phủ hết đối tượng cần trợ giúp theo vòng đời, công bằng, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, kịp thời, hiệu quả và thuận lợi trong tiếp cận.

- Bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi người dân dựa trên cơ sở chuẩn TGXH thống nhất được xây dựng theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản để xác định đối tượng và mức trợ cấp; có bước đi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của một nước đang phát triển có thu nhập trung bình cụ thể trong từng giai đoạn; hướng đến bảo đảm cho mọi người dân có mức sống dưới mức sống tối thiểu đều có quyền hưởng lợi từ chính sách, chương trình TGXH.

- Quản lý tập trung thống nhất vào một đầu mối về mặt nhà nước lĩnh vực TGXH và tách bạch với hoạt động sự nghiệp cung cấp dịch vụ TGXH. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, phát huy vai trò của cá nhân, gia đình, tổ chức trong và ngoài nước, nhất là tham gia chăm sóc đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng.

- Đổi mới TGXH trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới, tiếp cận dần các chuẩn mực quốc tế về an sinh xã hội/TGXH trong quá trình hội nhập; tăng cường sự liên kết, hợp tác khu vực và quốc tế trong thực hiện chính sách, chương trình TGXH.

Về định hướng đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội:

1- Đổi mới phương pháp tiếp cận thiết kế chính sách TGXH trong mối quan hệ tổng thể với chính sách an sinh xã hội theo vòng đời nhằm phòng ngừa, ứng phó với những rủi ro và thách thức mà người dân gặp phải trong cả cuộc đời của một con người.

2- Xây dựng mức chuẩn trợ cấp xã hội thống nhất giai đoạn 2015 - 2025 với lộ trình thích hợp dần tiếp cận mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng giai đoạn phát triển, do Tổng cục Thống kê công bố hai năm một lần.

3- Thiết kế chính sách, chương trình TGXH cho đối tượng thuộc diện được hưởng TGXH trên cơ sở phân loại theo vòng đời và chuẩn mức sống tối thiểu, mức độ khó khăn, yếu thế, bị tổn thương theo tiêu chí phù hợp do Nhà nước quy định để tránh chồng chéo, trùng lắp và bỏ sót đối tượng.

4- Thiết kế gói trợ cấp xã hội bằng tiền mặt không điều kiện hoặc có điều kiện cho từng nhóm đối tượng thuộc diện TGXH (bà mẹ mang thai và trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi) trên cơ sở tích hợp các chính sách để gọn đầu mối, minh bạch, dễ quản lý và thực hiện; trước hết tập trung TGXH cho đối tượng đặc biệt khó khăn (người nghèo, trẻ em mồ côi, người khuyết tật nặng, người già cô đơn không nơi nương tựa, đồng bào dân tộc thiểu số...).

5- Phát triển đa dạng các mô hình chăm sóc xã hội (cung cấp dịch vụ TGXH) công lập và ngoài công lập; phát triển mạnh mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, có chính sách khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc trẻ mồ côi, người khuyết tật, người cao tuổi, nhất là mô hình nhà dưỡng lão. Tách bạch quản lý nhà nước về TGXH và cung cấp dịch vụ TGXH cho từng nhóm đối tượng thuộc diện TGXH nhằm bảo đảm quản lý thống nhất theo đúng chức năng, gọn đầu mối và hiệu quả.

6- Nguồn và cơ chế tài chính: Bảo đảm nguồn chi trả TGXH thường xuyên trong cân đối ngân sách nhà nước hằng năm khoảng 1% GDP, cho TGXH đột xuất, khẩn cấp khoảng 0,1% GDP. Ưu tiên cân đối cho các địa bàn nghèo, khó khăn lại có đông đối tượng thuộc diện TGXH. Hình thành “Quỹ dự phòng trợ giúp khẩn cấp tại các địa phương” từ nhiều nguồn, trước hết là ở các địa bàn thường xuyên bị thiên tai, bão lũ, chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu...

7- Mở rộng sự tham gia của cá nhân, gia đình, cộng đồng, xã hội và hợp tác quốc tế vào hoạt động thực hiện TGXH, nhất là cơ chế huy động nguồn lực xã hội và cơ chế đặt hàng hoặc ủy thác cung cấp dịch vụ TGXH. Chuyển mạnh sang chăm sóc đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng. Nhà nước tập trung vào ban hành cơ chế, chính sách, kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả đầu ra.

8- Hoàn thiện bộ máy tổ chức và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực TGXH theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp và hiện đại; tập trung, thống nhất đầu mối là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; phát triển mạnh nghề công tác xã hội; nêu cao vai trò điều phối, hợp tác liên ngành; tăng cường giám sát và đánh giá độc lập; áp dụng công nghệ thông tin để quản lý đối tượng TGXH và chi trả trợ cấp xã hội qua hệ thống dịch vụ công chuyên nghiệp.

Về giải pháp thực hiện đổi mới:

Một là, xây dựng, phê duyệt đề án đổi mới và xác định lộ trình khả thi từng bước chuyển từ hệ thống TGXH hiện hành sang hệ thống TGXH theo đề án đổi mới. Lộ trình này bao gồm: nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội; mở rộng đối tượng theo tiếp cận quyền (phổ quát) phù hợp với các năm (2016 - 2017, 2018 - 2020, 2021 - 2025).

Hai là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về TGXH theo định hướng đổi mới. Xây dựng và thực hiện kế hoạch tổng thể hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về TGXH trong hệ thống chính trị và trong nhân đân; các chương trình truyền thông về TGXH trên các phương tiện thông tin đại chúng; hình thành và duy trì trang thông tin điện tử về TGXH; bổ sung, hoàn thiện giáo trình về an sinh xã hội/TGXH trong các trường cao đẳng, đại học có đào tạo chuyên ngành công tác xã hội.

Ba là, tháo gỡ những vướng mắc ở tầm vĩ mô về tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế tài chính về TGXH. Cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành liên quan theo hướng tập trung thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực TGXH vào một đầu mối là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và tách chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ TGXH thuộc các bộ, ngành khác (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch sinh hoạt, thông tin...). Phân cấp mạnh cho địa phương, cơ sở quản lý toàn diện, thực hiện chính sách/chương trình TGXH. Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà nước bảo đảm nguồn ngân sách đầu tư cho thực hiện chính sách/chương trình TGXH theo hướng đổi mới. Ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức xã hội, khu vực tư nhân tham gia TGXH.

Bốn là, tiến hành xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TGXH theo định hướng đổi mới. Rà soát, sắp xếp, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện pháp luật TGXH với tầm nhìn tổng thể và dài hạn (chiến lược) giai đoạn 2015 - 2025; nghiên cứu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới về TGXH theo hướng đổi mới; xây dựng và thực hiện các chương trình quốc gia TGXH thành 3 chương trình “cốt lõi” theo hướng tích hợp toàn diện (đa chiều) hỗ trợ cho 3 nhóm đối tượng: Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật nặng, người cao tuổi đặc biệt khó khăn; xây dựng và nhân rộng các mô hình TGXH hiệu quả.

Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về TGXH. Thực hiện với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm các cam kết quốc tế trong lĩnh vực TGXH; tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế đa phương, song phương và phi chính phủ về kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, tài chính, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các dự án từ các tổ chức phi chính phủ, để có thêm nguồn lực cho công tác TGXH./.
 

Nguyễn Hữu Dũng

TS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu an sinh xã hội và phát triển hòa nhập (INSPID)

                                                                                                                       Nguồn: Tạp chí Cộng sản số 891 (1-2017)