Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

Chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi trong giải quyết vấn đề già hóa dân số

  • Thực hiện: Administrator
  • 29/08/2016

Người cao tuổi chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu dân số nước ta và là một trong những nhóm người dễ tổn thương trong xã hội, cần được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe toàn diện. Là một nước có thu nhập trung bình thấp nhưng Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ rất nhanh. Chủ động ứng phó với sự thay đổi cơ cấu dân số theo hướng già hóa để khai thác mặt tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực là việc làm cấp bách hiện nay.

Già hóa dân số diễn ra với tốc độ nhanh

Người cao tuổi là những người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên. Người cao tuổi chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu dân số và là một trong những nhóm người dễ tổn thương trong xã hội, cần được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe toàn diện. Theo Báo cáo Triển vọng dân số thế giới của Liên hợp quốc, tỷ lệ phụ thuộc già (tỷ lệ người cao tuổi phụ thuộc vào dân số đang ở độ tuổi lao đông) được dự kiến sẽ tăng từ 9,6 tới 21,7% trong thời gian từ 2015 tới 2035. Sự thay đổi cơ cấu dân số này có tác động lớn tới hệ thống bảo trợ xã hội, y tế, thị trường lao động,... Vì vậy, chủ động ứng phó với sự thay đổi cơ cấu dân số theo hướng già hóa để khai thác mặt tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực là việc làm cấp bách hiện nay.

Việt Nam là một nước có thu nhập trung bình thấp nhưng đã bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ rất nhanh. Trong khi vẫn đang tận dụng những cơ hội của thời kỳ cơ cấu dân số vàng, Việt Nam cũng cần phải chủ động xây dựng kế hoạch để ứng phó với việc già hóa dân số. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam (đã đạt mức 73 tuổi) đang tăng lên là kết quả của những cải thiện về đời sống vật chất, tinh thần, chăm sóc y tế trong công cuộc đổi mới. Đây là điều mà mỗi gia đình và cả xã hội đều vui mừng đón nhận; tuy nhiên, nó cũng tạo ra những thách thức đối với hệ thống an sinh xã hội của quốc gia. Hơn thế nữa, theo các nhà nghiên cứu, già hóa dân số là vấn đề, là hiện tượng và đặc trưng của những nước thu nhập cao, không phải là các nước thu nhập thấp. Việt Nam vừa thoát khỏi tình trạng nước có thu nhập thấp, chuyển sang nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, vì vậy, thực trạng già hóa dân số sẽ đặt ra nhiều thách thức lớn không chỉ liên quan đến công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung.

Trong giai đoạn vừa qua, chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình giúp cho mức sinh của Việt Nam giảm khá nhanh. Bên cạnh đó, do điều kiện kinh tế phát triển, việc chăm sóc sức khỏe tốt hơn nên xu hướng gia tăng người cao tuổi của Việt Nam cũng đạt tốc độ nhanh chóng mặt. Việt Nam nằm trong số 10 nước có tốc độ già hóa nhanh nhất trên thế giới. Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và hiện có khoảng 10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% dân số. Riêng số người từ 80 tuổi trở lên là 2 triệu người. Dự báo đến năm 2030, tỷ trọng người cao tuổi Việt Nam chiếm 17% và năm 2050 là 25%.

Nếu như các nền kinh tế phát triển mất vài thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ để chuyển từ giai đoạn già hóa dân số (nhóm dân số 60+ tuổi chiếm 10%) sang giai đoạn dân số già (nhóm dân số 60+ tuổi chiếm 20%) như Australia: 73 năm, Hoa Kỳ: 69 năm, Canada: 65 năm… thì Việt Nam chỉ mất 22 năm.

Trong thời gian tới, mức sinh được dự đoán ổn định và với tốc độ già hóa dân số nhanh như hiện tại, sự chuyển đổi cơ cấu dân số sẽ tạo ra những tác động rất lớn đối với tăng trưởng kinh tế, lao động việc làm, tiết kiệm, đầu tư, chăm sóc y tế, an sinh xã hội, sự chuyển dịch các dòng di cư, thiết kế hạ tầng... đặt kinh tế xã hội Việt Nam trước những thách thức mới, nêu không được quan tâm giải quyết sẽ tạo ra những hệ lụy không hề nhỏ.

Đời sống người cao tuổi còn rất khó khăn

Theo Báo cáo của Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), tại Việt Nam, 65,7% người cao tuổi sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp. Đồng bằng sông Hồng là khu vực có tỷ lệ người cao tuổi đông nhất, chiếm 28% và thấp nhất là khu vực Tây Nguyên chỉ có 4%. Người cao tuổi tại Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong đó 73% không có lương hưu và phải sống phụ thuộc vào con cái. Số người cao tuổi được hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội nên rất nhiều người cao tuổi vẫn phải tự lao động và kiếm sống hàng ngày.

Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi nhất là ở vùng nông thôn còn rất khó khăn, tỷ lệ người nghèo ở người cao tuổi là 23,5%. Chỉ có khoảng 60% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế.

Tuổi thọ trung bình cao nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi ở nước ta thấp (64 tuổi); đặc biệt, có 67,2% người cao tuổi có tình trạng sức khỏe yếu và rất yếu, 70% người cao tuổi có khó khăn về vật chất…

Theo Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), sức khỏe của người cao tuổi nước ta còn nhiều hạn chế. Tuy tuổi thọ trung bình cao nhưng gánh nặng bệnh tật kép của người cao tuổi Việt Nam cũng cao, khoảng 95% người cao tuổi có bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính không lây truyền, trung bình 1 người cao tuổi Việt Nam mắc 3 bệnh. Gánh nặng bệnh tật kép này sẽ đe dọa nguồn ngân sách vốn đã eo hẹp của các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, trong đó có Việt Nam. Trong khi đó ở nước ta, hệ thống chăm sóc sức khỏe chưa đáp được nhu cầu ngày càng tăng của người cao tuổi.

Hoạt động chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi còn gặp nhiều khó khăn thách thức. Năm 2014, cả nước chỉ có 49/63 tỉnh có khoa lão tại các bệnh viện tỉnh và gần một nửa số người cao tuổi không có bảo hiểm y tế. Có tới 72,3% số người cao tuổi sống cùng với con cháu, trong khi đó xu hướng quy mô gia đình Việt Nam đang chuyển dần từ gia đình truyền thống sang gia đình hạt nhân. Tình trạng người cao tuổi sống không có vợ, chồng chiếm tỷ lệ cao, trong đó số cụ bà cô đơn cao gấp 5,44 lần so với cụ ông. Phụ nữ cao tuổi ly hôn, ly thân có tỷ lệ cao gấp 2,2 lần so với nam giới. Phải sống một mình là điều rất khó khăn đối với người cao tuổi bởi gia đình luôn là chỗ dựa cơ bản cho mỗi người khi về già…

Hệ thống an sinh xã hội cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của người cao tuổi; chưa có hệ thống chăm sóc dài hạn và hệ thống cung ứng việc làm cũng như chăm sóc sức khỏe dài hạn cho người cao tuổi; một bộ phận xã hội còn quan niệm sai lệch về người cao tuổi; vai trò của các tổ thức dân sự, đoàn thể, cá nhân chưa thực sự được phát huy… 

Chăm sóc y tế cho người cao tuổi

Đối với người cao tuổi, chăm sóc y tế là điều quan trọng nhất. Nhiệm vụ này cần được Nhà nước, gia đình và xã hội cùng quan tâm thực hiện. Bệnh tật ở người cao tuổi chủ yếu là bệnh không lây nhiễm và mạn tính nên chi phí chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng cao. Bên cạnh đó, người cao tuổi còn có những yêu cầu khác biệt, đặc thù về chăm sóc sức khỏe so với các nhóm tuổi khác. Đặc điểm bệnh lý của người cao tuổi khác với các lứa tuổi khác như lão hóa các cơ quan, tính chất đa bệnh lý, các hội chứng đặc trưng ở người cao tuổi; sử dụng nhiều thuốc, tình trạng phụ thuộc; tăng nguy cơ tai biến. Bệnh nhân cao tuổi thường có các hội chứng lão khoa đặc trưng (như hội chứng dễ bị tổn thương, sa sút trí tuệ, rối loạn vận động, suy dinh dưỡng, giảm hoạt động chức năng, lú lẫn, trầm cảm, loét, mất nước) có nguy cơ tai biến điều trị cao… Sau khi được điều trị, các bệnh nhân có nguy cơ cao dẫn đến tình trạng phụ thuộc hoàn toàn về thể chất và tâm thần, rất khó hồi phục. Chính vì thế, ngành y tế cần đáp ứng đầy đủ nhu cầu khám chữa bệnh của người cao tuổi với chất lượng ngày càng cao, chi phí và hình thức phù hợp (tại các cơ sở y tế, tại nhà…); đồng thời, phối hợp chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cơ sở y tế và dựa vào cộng đồng. Trong đó, việc thành lập khoa lão khoa trong các bệnh viện sẽ giúp người cao tuổi được chăm sóc một cách chuyên nghiệp, toàn diện và liên tục. 

Cả nước hiện có 106 khoa lão khoa được thành lập tại bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố và bệnh viện trung ương; hơn 900 khoa khám bệnh có buồng riêng cho người cao tuổi; trên 10.000 giường điều trị nội trú ưu tiên cho người cao tuổi và có 1.791 nhân viên y tế được đào tạo về lão khoa. Bên cạnh đó, số người cao tuổi được phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là trên 213.000 lượt; được khám chữa bệnh tại nhà là gần 80.000 lượt; người cao tuổi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế là gần 8 triệu lượt. Qua khám chữa bệnh phát hiện trên 1 triệu lượt người cao tuổi có bệnh mạn tính không lây nhiễm… Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác khám, chữa bệnh cho người cao tuổi còn nhiều khó khăn, thách thức. Một số địa phương hiện vẫn chưa bố trí kinh phí thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi như khám sức khỏe định kỳ do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị để thành lập khoa lão còn thiếu; bác sỹ, điều dưỡng học về chuyên ngành lão khoa còn thiếu nên chưa tư vấn, tuyên truyền và phổ biến kiến thức phòng và chữa bệnh cho người cao tuổi tại cộng đồng…

Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, tuy nhiên, với tốc độ già hóa dân số như hiện nay, Nhà nước, mà cụ thể là ngành y tế cần có cơ chế, chính sách cũng như chương trình mở rộng mạng lưới các cơ sở y tế, tăng cường trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu cho công tác khám, chữa bệnh và điều trị cho người cao tuổi.

Theo hướng này, Bộ Y tế đã xây dựng “Đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017 - 2025”. Đề án được triển khai trên toàn quốc tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ưu tiên các tỉnh thành phố có tỷ lệ người cao tuổi cao, các tỉnh vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa có nhiều người cao tuổi gặp khó khăn hoặc người cao tuổi là người dân tộc thiểu số. 

Nội dung đề án tập trung vào các hoạt động tăng cường truyền thông giáo dục thay đổi hành vi nâng cao nhận thức, tạo môi trường xã hội đồng thuận tham gia chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; xây dựng, phát triển phong trào chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; củng cố, hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh cho người cao tuổi. Nâng cao năng lực cho y tế cơ sở bao gồm cả trạm y tế xã, phường, thị trấn trong thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người cao tuổi; nâng cao năng lực cho các khoa lão của bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa (trừ bệnh viện chuyên khoa nhi) thực hiện khám chữa bệnh cho người cao tuổi. Ngoài ra, đề án còn xây dựng và phổ biến mô hình chăm sóc sức khỏe dài hạn cho người cao tuổi; xây dựng và duy trì hoạt động của đội ngũ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại gia đình; thí điểm xã hội hóa chăm sóc y tế cho người cao tuổi tại các cơ sở chăm sóc tập trung; phát triển nguồn nhân lực chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi… Tổ chức hệ thống mạng lưới chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe ban đầu để dự phòng các bệnh không lây nhiễm; phối hợp y học cổ truyền và y học hiện đại trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chăm sóc sức khỏe tâm thần. 

Quan tâm đến chính sách bảo hiểm y tế, dự báo chi phí chăm sóc sức khỏe trong tương lai đối với người cao tuổi. Đặc biệt, phân bổ nhân lực để thực hiện cung ứng dịch vụ dự phòng các bệnh mạn tính ở tuyến y tế cơ sở, trong cộng đồng, nhân lực đáp ứng nhu cầu quản lý bệnh không lây nhiễm ở giai đoạn bệnh tiến triển…

Tạo môi trường thuận lợi để người cao tuổi tiếp tục đóng góp cho xã hội

Người cao tuổi là một nguồn lực quan trọng của xã hội. Người cao tuổi là những người có kiến thức, kinh nghiệm. Trong số người cao tuổi, rất nhiều người là những chuyên gia, người lao động trình độ cao của các ngành, lĩnh vực; có sức khỏe, có nguyện vọng tiếp tục cống hiến cho gia đình và xã hội. Họ không muốn nghỉ ngơi thụ động, phụ thuộc vào con cái mà muốn có cuộc sống chủ động, tích cực, tham gia công việc gia đình, xã hội. Vì vậy, Nhà nước và xã hội cần thay đổi quan niệm, cách tiếp cận, cách nhìn đối với vấn đề người cao tuổi. Coi người cao tuổi không chỉ là vấn đề để tập trung chăm sóc, coi người cao tuổi là đối tượng đi thăm, tặng quà vì đã quá già và nghèo. Thực tể có rất nhiều người còn sức khỏe, nhất là từ tuổi 60 đến 75, họ vẫn muốn tiếp tục cống hiến, vẫn muốn được tạo điều kiện nhưng chưa được đáp ứng. Vì vậy, người cao tuổi không chỉ là vấn đề cần giải quyết mà còn là cơ hội, nguồn lực cho sự phát triển, cấn quan tâm tạo có chế, chính sách để thu hút, khai thác nguồn lực đó một cách hiệu quả.

Để người cao tuổi tiếp tục đóng góp cho gia đình, xã hội, người cao tuổi cần sự ủng hộ và tạo của gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp. Và đặc biệt là vai trò của Nhà nước. Để các hoạt động đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi diễn ra suôn sẻ, những hoạt động này cần đặt trên nền tảng pháp luật. Nhà nước có thể ban hành các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy các hoạt động của người cao tuổi. Đây là vai trò nổi bật của Nhà nước trong việc khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp, cộng đồng, gia đình, cá nhân bảo vệ, chăm sóc, phát huy khả năng đóng góp của người cao tuổi. 

Nhà nước cũng có thể lồng ghép yếu tố người cao tuổi, chính sách đối với người cao tuổi vào chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng hướng trực tiếp đến người cao tuổi; khuyến khích, tạo điều kiện, hỗ trợ cho họ rèn luyện sức khỏe; tham gia học tập; hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhà nước cần bố trí nguồn lực hằng năm để thực hiện pháp luật, chính sách chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, nhất là đối với những người cao tuổi có hoàn cảnh đặc biệt.

Những nỗ lực của gia đình, xã hội và Nhà nước sẽ tạo ra môi trường xã hội thúc đẩy tính năng động của quá trình già hóa, điều kiện và cơ hội tốt nhất phát huy được đầy đủ khả năng của người cao tuổi và cùng xã hội đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nhóm xã hội đặc biệt này./.

TS. Phạm Hải Hưng

Đại học Lao động và Xã hội Hà Nội