Câu hỏi: Năm 2009, vợ chồng tôi đăng kí kết hôn. Năm 2018, tôi và chồng có một mảnh đất nhưng người đứng tên sổ đỏ là chồng tôi. Đến nay, chúng tôi không còn muốn ở chung với nhau nữa và muốn ly hôn thì mảnh đất đó có được coi là tài sản chung trong thời kì hôn nhân không?
Phòng Luật Trung tâm ACDC tư vấn:
Căn cứ Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng kýquyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Theo đó, trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì khi có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
“Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Theo đó, nếu có tranh chấp, người có tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải chứng minh đó là tài sản riêng. Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp là của riêng, đó là của chung vợ chồng.
Căn cứ khoản 2 Điều 59 Luật này, khi ly hôn, tài sản chung được chia đôi có tính đến các yếu tố như: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung…
Do đó, dù không đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng nếu là tài sản chung thì vẫn được chia tài sản khi ly hôn.