Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

Một số điểm mới của Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 liên quan đến người khuyết tật

  • Thực hiện: Loan Nguyễn
  • 10/01/2023

Trong thời gian qua, bạo lực gia đình (BLGĐ) đã và đang là vấn đề nhức nhối của xã hội với nhiều diễn biến phức tạp khó lường, thậm chí nhiều trường hợp xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tự do, tài sản của các thành viên gia đình, gây bất bình trong xã hội. Tình trạng này đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa nhiệm vụ “Rà soát, hoàn thiện pháp luật có liên quan đến phòng, chống BLGĐ”[1] nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác phòng, chống BLGĐ, tăng cường các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ người bị BLGĐ (đặc biệt là người khuyết tật[2] và nhóm đối tượng yếu thế), xử lý nghiêm người có hành vi BLGĐ, từ đó góp phần xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, để gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.

Đáp ứng yêu cầu này, ngày 14/11/2022, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống BLGĐ số 13/2022/QH15 (Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022), có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2023. Luật này bao gồm 56 điều khoản chia thành 6 chương với nhiều sửa đổi, bổ sung so với Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2007 (Luật hiện hành), đặc biệt là các quy định mang tính đặc thù nhằm hỗ trợ, bảo vệ có hiệu quả người bị BLGĐ thuộc nhóm yếu thế (trong đó có người khuyết tật). Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số điểm mới trong các quy định của Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 liên quan đến hỗ trợ, bảo vệ người khuyết tật như sau:

Điểm đầu tiên cần phải nhắc tới là với phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người, các nhà làm luật đã chỉnh sửa, thay thế thuật ngữ “người tàn tật” (tại khoản 3 Điều 3 Luật hiện hành) bằng thuật ngữ “người khuyết tật” trong Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022. Sự thay đổi về mặt thuật ngữ không chỉ đảm bảo phù hợp với thuật ngữ “persons with disabilities” (người khuyết tật) được ghi nhận trong Công ước về Quyền của người khuyết tật (CRPD), Luật Người khuyết tật năm 2010 mà còn thể hiện sự tôn trọng phẩm giá của người khuyết tật.

Tiếp đó, kế thừa và phát triển Luật Phòng, chống BLGĐ hiện hành, Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 tiếp tục khẳng định nguyên tắc việc ưu tiên bảo vệ đối với các nhóm đối tượng được xem là yếu thế (trong đó có người khuyết tật) khỏi hành vi BLGĐ. Song, khác với sự ghi nhận một cách chung chung của Luật hiện hành, Luật mới đã sửa đổi, bổ sung một loạt các quy định loạt đặc thù nhằm đảm bảo nguyên tắc ưu tiên hỗ trợ, bảo vệ những đối tượng yếu thế là người bị BLGĐ, đặc biệt là đối với người khuyết tật. Điều này dễ dàng nhận thấy qua một số quy định sau:

Thứ nhất, về các hành vi BLGĐ, khắc phục những hạn chế trong Luật hiện hành về việc quy định chưa đầy đủ các hành vi BLGĐ, chưa phản ánh được hết thực tiễn đã và đang diễn ra, dẫn đến cách hiểu khác nhau về BLGĐ cũng như nhận diện đúng, đủ hành vi BLGĐ cũng như thiếu thống nhất khi thực hiện các biện pháp phòng, chống BLGĐ ở các địa phương[3], khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 đã mở rộng các hành vi BLGĐ từ 09 nhóm hành vi lên thành 16 nhóm hành vi. Trong đó, Luật mới đã bổ sung một số hành vi BLGĐ mà không hiếm người khuyết tật là nạn nhân từ chính người thân trong gia đình họ như: Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình; Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi...[4] Và đặc biệt, hành vi bỏ mặc, không nuôi dưỡng, không chăm sóc thành viên gia đình là người khuyết tật – vốn được xếp vào nhóm hành vi “hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình” bị xử phạt theo các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống BLGĐ (Nghị định 167/2013/NĐ-CP được thay thế bởi Nghị định 144/2021/NĐ-CP) nay được bổ sung và ghi nhận trực tiếp tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022. Việc bổ sung quy định này nhằm tăng cường hiệu lực pháp lý cho việc phòng, chống, ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là người khuyết tật xảy ra khá phổ biến trên thực tế, đồng thời cũng phù hợp với quan điểm của Luật Người khuyết tật năm 2010 về những hành vi bị nghiêm cấm trong việc thực hiện trách nhiệm này.

Thứ hai, quán triệt nguyên tắc phòng ngừa BLGĐ chủ động và để khắc phục những hạn chế của Luật hiện hành trong công tác thông tin, truyền thông, giáo dục, tư vấn về phòng, chống BLGĐ đến người khuyết tật và nhóm đối tượng yếu thế khác, Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 yêu cầu việc thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống BLGĐ phải bảo đảm chú trọng đến người khuyết tật và các đối tượng yếu thế khác. Tương tự, việc tư vấn về phòng, chống BLGĐ tập trung vào một số đối tượng, trong đó có người khuyết tật (điểm b khoản 2 Điều 13, điểm c khoản 2 Điều 16). Những quy định mới ở tầm vĩ mô này của Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để Chính phủ, các Bộ ngành liên quan quy định những điều kiện đảm bảo đặc thù về hình thức, phương thức, phương tiện, tài liệu thông tin, giáo dục, truyền thông và tư vấn phù hợp với từng loại đối tượng người khuyết tật là người bị BLGĐ (chủ yếu phân theo dạng tật như người khuyết tật nhìn, người khuyết tật nghe, nói...).

Thứ ba, để tăng cường bảo vệ người bị BLGĐ, đặc biệt là nhóm dễ bị tổn thương (trong đó có người khuyết tật), Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 đã bổ sung một số biện pháp bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong phòng, chống BLGĐ mới cũng như sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan tới biện pháp được kế thừa từ Luật hiện hành. Cụ thể:

Đối với vấn đề báo tin và xử lý tin báo, tố giác về hành vi BLGĐ: So với Điều 18 Luật hiện hành thì Điều 19 Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 đã mở rộng các địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác về hành vi BLGĐ, đặc biệt là bổ sung “Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống BLGĐ” (và giao cho Chính phủ quy định về tổng đài này), tạo thêm nhiều kênh để người bị BLGĐ tìm kiếm sự hỗ trợ. Hơn nữa, Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 còn giao cụ thể trách nhiệm xử lý tin báo, tố giác về hành vi BLGĐ mà người bị bạo lực là người khuyết tật và các đối tượng yếu thế khác cho Công an xã, phường, thị trấn (công an xã) và trao cho Trưởng Công an xã quyền yêu cầu người có hành vi BLGĐ đến trụ sở Công an xã nơi xảy ra hành vi BLGĐ. Quy định này nhằm phát huy nguồn lực của lực lượng này trong việc kiểm tra, xác minh sơ bộ tin báo và tạo điều kiện giải quyết kịp thời các vụ việc ngay từ giai đoạn đầu, giải quyết vụ việc ngay tại cơ sở, đảm bảo tính kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi BLGĐ và bảo đảm an toàn cho người bị BLGĐ[5].

Đối với các biện pháp ngăn chặn hành vi BLGĐ và bảo vệ, hỗ trợ người bị BLGĐ cũng có nhiều sự sửa đổi, bổ sung. Đơn cử như biện pháp cấm tiếp xúc – một biện pháp được đánh giá là rất cần thiết để đảm bảo an toàn cho người bị BLGĐ (đặc biệt là người khuyết tật và các đối tượng yếu thế khác) đã được ghi nhận tại các Điều 20, Điều 21 Luật hiện hành. Tuy nhiên, thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua lại cho thấy tính thiếu khả thi, chưa thực sự bảo vệ người bị BLGĐ của biện pháp này. Bởi, trên thực tiễn, khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc thì người bị BLGĐ thường là người phải ra khỏi nhà, trong khi đó, nạn nhân BLGĐ thường là người yếu thế (phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi). Đối với phụ nữ (phụ nữ khuyết tật), khi áp dụng cấm tiếp xúc, người bị BLGĐ thường mang theo con chưa trưởng thành đi kèm[6]. Trong khi đó, kẻ có hành vi BLGĐ lại đương nhiên được ở nhà của mình, và việc người bị BLGĐ không ở đó, thậm chí có khi là mong muốn của kẻ có hành vi bạo hành, nên họ có thể hoàn toàn không quan tâm. Không chỉ vậy, người bị BLGĐ là phụ nữ (trong đó có phụ nữ khuyết tật) khi ra khỏi nhà còn có nguy cơ cao bị bạo lực xã hội. Khắc phục những hạn chế này và để đạt được mục đích bảo vệ an toàn cho người bị BLGĐ của việc áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc, Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 đã quy định người bị BLGĐ được quyền lựa chọn chỗ ở trong thời gian cấm tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã (khoản 5 Điều 25). Thêm vào đó, để tạo ra sự chủ động cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ người bị BLGĐ, đặc biệt là người khuyết tật là các đối tượng yếu thế khác, trong trường hợp cần thiết, Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 còn trao quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Tòa án nhân dân có thể tự mình ban hành quyết định cấm tiếp xúc khi có căn cứ thấy rằng hành vi BLGĐ đe dọa tính mạng của người bị BLGĐ (khoản 1 Điều 25, khoản 2 Điều 26). Các quy định này nếu được thi hành trên thực tế sẽ góp phần bảo vệ an toàn cho người bị BLGĐ, đặc biệt là người khuyết tật – những người yếu thế, dễ bị tổn thương và gánh chịu hậu quả nặng nề của hành vi BLGĐ.

Trên đây là một số điểm mới của Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2022 liên quan đến người khuyết tật. Lẽ dĩ nhiên rằng, tính đúng đắn của các quy định luật cần phải được kiểm định qua thực tế thi hành. Song trước mắt, không thể phủ nhận, đạo luật mới điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực phòng, chống BLGĐ này đã có những điểm tiến bộ vượt trội, khắc phục những bất cập của Luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu tăng cường hỗ trợ, bảo vệ người bị BLGĐ, đặc biệt khi họ là những người yếu thế, dễ bị tổn thương./.


[1] Điểm a khoản 1 Mục II Chương trình quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới đến năm 2025 được ban hành kèm theo Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 13/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới đến năm 2025.

[2] Theo kết quả Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổng cục Thống kê thực hiện): Một phần ba phụ nữ khuyết tật (33,0%) từng bị chồng/bạn tình bạo lực thể xác so với một phần tư (25,3%) phụ nữ không bị khuyết tật; 6,4% phụ nữ khuyết tật bị xâm hại tình dục khi còn nhỏ (trước tuổi 15), cao hơn so với tất cả phụ nữ nói chung (4,4%).

[3] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Báo cáo Kết quả 10 năm thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Hà Nội, tr.22.

[4] Theo phản ánh của đại diện một số Hội Người khuyết tật, Câu lạc bộ phụ nữ khuyết tật tại Tọa đàm ngày 08/06/2021 do ACDC chủ trì, liên quan đến thực trạng phòng, chống BLGĐ đối với người khuyết tật và kiến nghị sửa đổi bổ, sung Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2007.

[5] Bài viết “Vai trò của công an cấp xã trong xử lý vụ việc bạo lực gia đình”, Trang Thông tin điện tử về gia đình, http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/vai-tro-cua-cong-an-cap-xa-trong-xu-ly-vu-viec-bao-luc-gia-dinh/, cập nhật ngày 02/10/2021.

[6] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2020), Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của chính sách Đề nghị xây dựng Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), Hà Nội, tr.9.