Tiếp cận giáo dục là quyền cơ bản của con người (bao gồm người khuyết tật), được ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng hệ thống pháp luật ở các quốc gia. Tiếp cận giáo dục không chỉ là một quyền cơ bản mà còn giúp người khuyết tật mở ra cơ hội việc làm và hoà nhập xã hội. Việc không được tiếp cận giáo dục có thể là một rào cản đối với việc tham gia vào xã hội của người khuyết tật. Vì vậy, đảm bảo tiếp cận giáo dục sẽ góp phần không nhỏ trong việc tăng cơ hội để người khuyết tật có được cuộc sống tốt hơn.
Trong phạm vi bài viết này, tiếp cận giáo dục được nghiên cứu bao gồm: Cơ sở vật chất, môi trường học tập đủ an toàn; việc tuyển sinh đúng độ tuổi; chương trình, sách giáo khoa và học liệu; giáo viên giảng dạy, nhân viên hỗ trợ.
Thực trạng đảm bảo tiếp cận giáo dục đối với người khuyết tật
Với tầm quan trọng của hoạt động giáo dục, đảm bảo tiếp cận giáo dục đối với người khuyết tật luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Theo đó, có nhiều chính sách đã được ban hành và quá trình thực thi đã đạt được một số kết quả khả quan:
Thứ nhất, chính sách chung đảm bảo quyền học tập của người khuyết tật.
Khoản 3 Điều 61 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ. Cụ thể hóa quy định trên, Điều 28 Luật Người khuyết tật năm 2010 đã ghi nhận ba phương thức giáo dục người khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt. Trong đó, giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu đối với người khuyết tật. Giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt được thực hiện trong trường hợp chưa đủ điều kiện để người khuyết tật học tập theo phương thức giáo dục hòa nhập. Người khuyết tật, cha, mẹ hoặc người giám hộ người khuyết tật lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân người khuyết tật. Gia đình có trách nhiệm tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để người khuyết tật được học tập và phát triển theo khả năng của cá nhân. Với những chính sách trên, trong thời gian qua, số lượng trẻ khuyết tật tham gia học hòa nhập tăng đều từng năm[1]; số lượng học sinh khuyết tật được đi học trong giai đoạn 2012-2020 đã tăng gấp khoảng 10 lần so với giai đoạn 2000-2010; cả nước đã hình thành hệ thống các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập tại 20 tỉnh, thành phố, 97 cơ sở giáo dục chuyên biệt; Phát triển được mạng lưới giáo viên dạy trẻ khuyết tật ở 63 tỉnh, thành[2].
Thứ hai, chính sách đảm bảo điều kiện tiếp cận công trình xây dựng, cơ sở giáo dục.
Điều 30 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm các điều kiện dạy và học phù hợp đối với người khuyết tật, thực hiện việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất dạy và học chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 10:2014/BXD về xây dựng công trình đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng. Quy chuẩn này quy định các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc phải tuân thủ khi xây dựng mới hoặc cải tạo các công trình xây dựng, cơ sở hạ tầng bao gồm các cơ sở giáo dục phải đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng. Trong từng giai đoạn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các đề án, chương trình trợ giúp người khuyết tật, bao gồm các chính sách đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục đối với người khuyết tật: Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 chỉ tiêu đến 2020 có 70% trẻ em khuyết tật có khả năng học tập được tiếp cận giáo dục có chất lượng[3]. Tiếp đến, Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030 đề rõ các mục tiêu giai đoạn 2021-2025 có 80% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo dục, mục tiêu giai đoạn 2026 - 2030 có 90% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo dục[4].
Thứ ba, chính sách đảm bảo phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập cho người khuyết tật.
Khoản 3 Điều 27 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định: “Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia”. Điều này có nghĩa, người khuyết tật với các dạng khuyết tật khác nhau sẽ được cung cấp công cụ, tài liệu và hỗ trợ học tập phù hợp, đảm bảo được học tập trong lớp dựa theo khả năng, nhu cầu và năng lực học tập của từng dạng khuyết tật. Theo đó, trong giai đoạn 2012-2020, ngành giáo dục đã biên soạn và cung cấp một số giáo trình, tài liệu phục vụ việc học tập của học sinh khuyết tật; Hệ thống giáo trình, sách hướng dẫn, tài liệu dạy và học cho người khuyết tật ngày càng được xuất bản và sử dụng rộng rãi[5]; Việc xây dựng chương trình, tài liệu học tập hỗ trợ giáo dục đối với học sinh khuyết tật ngày càng được quan tâm…
Thứ tư, chính sách đào tạo, ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật.
Điều 29 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tham gia giáo dục người khuyết tật, nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng đáp ứng nhu cầu giáo dục người khuyết tật, được hưởng chế độ phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định. Với chính sách trên, hiện nay cả nước đã có 04 trường Đại học sư phạm và 03 trường Cao đẳng sư phạm thành lập khoa Giáo dục đặc biệt và mở các mã ngành đào tạo giáo viên dạy trẻ khuyết tật. Hằng năm, các trường này đã đào tạo được gần 600 giáo viên dạy trẻ khuyết tật, tập huấn giáo dục hòa nhập cho 600 - 700 cán bộ quản lý và từ 2.000 - 2.500 giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông cốt cán của 63 tỉnh/thành phố về nghiệp vụ giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật để những người này tiến hành tập huấn, hướng dẫn cho giáo viên tại các địa phương về giáo dục hòa nhập, tiếp tục phát triển mạng lưới giáo viên dạy trẻ khuyết tật trong cả nước[6].
Như vậy, có thể thấy rằng, để thúc đẩy và đảm bảo tiếp cận giáo dục đối với người khuyết tật và phù hợp với Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD), Việt Nam đang từng bước cải thiện hệ thống giáo dục trở nên toàn diện hơn.
Khó khăn, bất cập trong tiếp cận giáo dục của người khuyết tật
Mặc dù đã có những chính sách cụ thể nhằm đảm bảo người khuyết tật tiếp cận giáo dục, song thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại một số khó khăn, bất cập như:
Thứ nhất, cơ hội tiếp cận trường học của trẻ em khuyết tật thấp hơn trẻ em không khuyết tật.
Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học của trẻ khuyết tật khoảng 81,69%, trong khi tỷ lệ này của trẻ không khuyết tật là 96,05%. Khoảng cách giữa tỷ lệ nhập học đúng tuổi và tỷ lệ đi học chung của trẻ khuyết tật lớn hơn của trẻ không khuyết tật[7]. Bên cạnh đó, chênh lệch về tỷ lệ đi học giữa trẻ khuyết tật và không khuyết tật tăng lên ở các cấp học cao hơn. Đến cấp trung học phổ thông chỉ có 1/3 trẻ khuyết tật đi học đúng tuổi (33,56%), so với tỷ lệ 2/3 trẻ em không khuyết tật (68,65%)[8]. Thực trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu: (i) Trường học xa nhà, khó tiếp cận, không đáp ứng được cơ sở vật chất phù hợp với tình trạng khuyết tật của người khuyết tật, thiếu giáo viên đủ trình độ và sự phân biệt đối xử; (ii) Cha mẹ người khuyết tật không nhận thức được mức độ quan trọng của việc cho người khuyết tật được học tập khi đến độ tuổi nhập học. Bởi lẽ, dù cho nhà trường có đủ cơ sở vật chất và giáo viên phù hợp nhưng cha mẹ người khuyết tật thấy rằng giáo dục không phù hợp hoặc không quan trọng đối với con mình thì họ sẽ không gửi con đến trường, ngay cả khi nhà trường, nhà nước có những chính sách khuyến khích, hỗ trợ học tập cho người khuyết tật[9].
Thứ hai, số lượng cơ sở giáo dục đảm bảo tiếp cận đối với người khuyết tật còn thấp.
Theo lộ trình cải tạo công trình công cộng được quy định tại Luật Người khuyết tật năm 2010 và Nghị định 28/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật người khuyết tật thì đến năm 2015 có ít nhất 50% cơ sở giáo dục bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật, đến năm 2017 có ít nhất 75% cơ sở giáo dục bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật, đến ngày 01/01/2020, tất cả các cơ sở giáo dục phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật[10]. Tuy nhiên, theo Báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật năm 2016 thì cứ 100 trường học, chỉ có 3 trường có thiết kế phù hợp (2,9%), 8 trường có lối đi dành cho người khuyết tật (8,1%) và 10 trường có công trình vệ sinh phù hợp với trẻ khuyết tật (9,9%). Sự thiếu hụt này khiến môi trường học tập không thân thiện và cản trợ sự tiếp cận giáo dục của người khuyết tật. Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê trong Báo cáo độc lập về tình hình thực thi Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam thì Việt Nam mới chỉ có 20,8% số công trình giáo dục đảm bảo tiếp cận đối với người khuyết tật[11]. Kết quả này cho thấy rằng, lộ trình cải tạo cơ sở giáo dục phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật đã không thực hiện được đúng lộ trình.
Thứ ba, chương trình, sách giáo khoa và học liệu dành cho người khuyết tật chưa đáp ứng được yêu cầu.
Việc thiếu tài liệu và thiết bị hỗ trợ cũng là một trong những rào cản lớn đối với người khuyết tật trong giáo dục. Hơn nữa, chi phí cho việc phát hành các tài liệu, học liệu (như chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia) rất cao nên đây cũng là một trong những thách thức của việc đảm bảo tiếp cận về tài liệu và chương trình đào tạo cho người khuyết tật. Báo cáo giám sát công tác giáo dục người khuyết tật của Ban Chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn chỉ rõ: 100% các cơ sở giáo dục công lập, có học sinh khuyết tật tham gia học tập, thiếu trang thiết bị và đồ dùng dạy học. Nhóm trẻ khuyết tật nghe - nói; khuyết tật vận động; khuyết tật trí tuệ… hiện dùng sách và học liệu như các học sinh không khuyết tật[12]. Việc không có học liệu đặc thù khiến học sinh khuyết tật và giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong dạy học hòa nhập. Những rào cản này cho thấy quyền tiếp cận giáo dục của người khuyết tật quy định Luật Người khuyết tật năm 2010 chưa được bảo đảm thực hiện hiệu quả.
Thứ tư, đội ngũ giáo viên, nhân viên tham gia giáo dục cho người khuyết tật tại các cơ sở giáo dục chưa đảm bảo đáp ứng được yêu cầu.
Mặc dù trong những năm gần đây, ngành giáo dục khá nỗ lực trong việc tăng cường số lượng và chất lượng giáo viên dạy học sinh khuyết tật, tuy nhiên, số lượng đội ngũ giáo viên dạy học sinh khuyết tật chưa được đào tạo kịp để đáp ứng nhu cầu đi học ngày càng tăng của trẻ khuyết tật. Có gần 3/4 số trường thiếu giáo viên giảng dạy học sinh khuyết tật (72,3%), cứ 7 giáo viên tiểu học và trung học cơ sở thì mới có 1 người được đào tạo để giảng dạy cho học sinh khuyết tật (14,1%)[13]. Việc bố trí giáo viên chuyên ngành giáo dục đặc biệt trong các cơ sở giáo dục có học sinh khuyết tật học hòa nhập và nhân viên hỗ trợ giáo dục trẻ khuyết tật trong các cơ sở giáo dục mầm non có học sinh khuyết tật học hòa nhập còn gặp nhiều vướng mắc về chính sách tuyển dụng, các chế độ ưu đãi cho giáo viên dạy trẻ khuyết tật học hòa nhập còn bất cập, chưa thu hút được giáo viên. Cơ quan và chủ thể có thẩm quyền vẫn chưa quan tâm, chú trọng đến vấn đề này, nên chưa khuyến khích được giáo viên tích cực tham gia giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật.
Một vài khuyến nghị
Để đảm bảo người khuyết tật có thể dễ dàng tiếp cận cơ sở giáo dục, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục đối với người khuyết tật, người thân của người khuyết tật nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện, cơ hội cho mọi trẻ em khuyết tật đều được đến trường đúng tuổi. Đặc biệt, chú trọng hơn công tác truyền thông, phổ biến giáo dục đến các cộng đồng dân cư ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa, các dân tộc thiểu số.
Thứ hai, tăng cường trách nhiệm, sự quan tâm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc đảm bảo các điều kiện học tập của người khuyết tật tại các cơ sở giáo dục. Đặc biệt cần có cơ chế phân bổ tài chính từ ngân sách nhà nước cũng như phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan chức năng để chủ động trong việc xây dựng mới, cải tạo cơ sở vật chất, thiết bị hỗ trợ đảm bảo tiếp cận đối với người khuyết tật theo đúng mục tiêu Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030. Trong đó, tăng cường việc bố trí kinh phí cho hoạt động chuyển đổi, in ấn sách giáo khoa (chữ nổi Braille), hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập đặc thù thiết yếu cho người khuyết tật.
Thứ ba, thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục. Trong đó, cần huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội, đặc biệt là các tổ chức tư nhân tham gia vào hoạt động cung cấp dịch vụ giáo dục cho trẻ em khuyết tật. Cần có chính sách khuyến khích các chuyên gia, doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, sản xuất các phần mềm, trang thiết bị, đẩy mạnh tiếp cận, ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường cải thiện điều kiện tiếp cận cơ sở vật chất, hạ tầng trường học và có những biện pháp điều chỉnh hợp lý, bảo đảm quyền được học tập cho người khuyết tật[14].
Thứ tư, tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cho các giáo viên, nhân viên tham gia giáo dục cho người khuyết tật tại các cơ sở giáo dục. Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào đạo phối hợp với chính quyền địa phương có những chủ trương, chính sách ưu tiên, chế độ tuyển dụng, phụ cấp ưu đãi nhằm thu hút nhân lực làm công tác giáo dục cho người khuyết tật.
Lưu ý rằng, những giải pháp trên đây chỉ là một phần gợi mở trong tổng thể các giải pháp để đảm bảo và thúc đẩy việc tiếp cận giáo dục đối với người khuyết tật mà Việt Nam cần phải thực hiện trong thời gian tới. Giáo dục là nền tảng cho việc trang bị có việc làm ổn định trong tương lai, mà việc làm lại là cách để người khuyết tật có thể hòa nhập cộng đồng nhanh và tốt nhất. Tuy nhiên, để có một nền giáo dục tốt, một việc làm tốt cần phải có sự chung tay của nhiều bên liên quan, việc thực hiện những giải pháp này sẽ góp phần giúp cho người khuyết tật có thể tham gia học tập bình đẳng như người không khuyết tật, từ đó góp phần nâng cao đời sống cho người khuyết tật, hướng tới hoà nhập cộng đồng và đóng góp cho sự phát triển của xã hội.
[1] Nguyễn Thị Kim Hoa (2021), Tiếp cận và công bằng trong giáo dục trẻ khuyết tật giai đoạn 2011-2020, Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, Số đặc biệt, Tháng 11/2021, tr.8.
[2] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2020), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020.
[3] Điểm b khoản 2 mục I Điều 1 Quyết định 1019/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 05/08/2012.
[4] Quyết định 1190/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 05/08/2020.
[5] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2020), tlđd.
[6] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2020), tlđd.
[7] Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật 2016, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.80.
[8] Tổng cục Thống kê (2018), tlđd, tr.82.
[9] Khoản 2 Điều 15, khoản 2 Điều 18 Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo quy định học sinh, sinh viên khuyết tật là đối tượng được miễn học phí, được hỗ trợ chi phí học tập.
[10] Điều 40 Luật Người khuyết tật năm 2010; Khoản 1 Điều 13 Nghị định 28/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật người khuyết tật.
[11] Liên Hiệp hội về Người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình hình thực thi Công ước của Liên Hợp quốc về quyền của người khuyết tật tại Việt Nam, Hà Nội, tr.22.
[12] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo giám sát công tác giáo dục người khuyết tật của ban chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
[13] Tổng cục Thống kê (2018), tlđd, tr.19.
[14] Nhật Anh (2021), Để người khuyết tật tiếp cận tốt hơn chính sách y tế và giáo dục, tại địa chỉ: https://nhandan.vn/de-nguoi-khuyet-tat-tiep-can-tot-hon-chinh-sach-y-te-va-giao-duc-post679469.html, cập nhật ngày: 23/12/2021.