Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người ở Việt Nam

  • Thực hiện: Ngô Đức Mạnh
  • 02/02/2017

Thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cho đến nay, đã hình thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới vào năm 1986 đến nay, Quốc hội đã ban hành 305 văn bản luật và 208 pháp lệnh[1]. Trong số này có những đạo luật trực tiếp điều chỉnh quyền con người, quyền công dân như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Dược, Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống mua bán người, Luật bình đẳng giới, Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật cư trú, Luật tiếp công dân, Luật việc làm… Đáng chú ý, Quốc hội đã ban hành những đạo luật riêng cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật người cao tuổi, Luật người khuyết tật.

Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội vừa qua, cùng với việc xem xét, phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của người tàn tật và Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn, đã tiến hành rà soát và kịp thời bổ sung những đạo luật được thông qua kỳ này để bảo đảm tính tương thích với các cam kết của Việt Nam trong hai Công ước này. Đó là  các quy định trong Luật Nhà ở về quyền của người khuyết tật, Luật Đầu tư và Luật doanh nghiệp nhằm bảo đảm đối xử bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài.

Nội dung của các đạo luật được ban hành thể chế hóa ngày càng đầy đủ, cụ thể và rõ ràng quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc xây dựng các đạo luật theo nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật; được tiếnh hành công khai, minh bạch với sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của các nhóm đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn bản và trong nhiều trường hợp được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân tham gia đóng góp ý kiến.

Đồng thời, các đạo luật được ban hành đã cố gắng đến mức tối đa nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) là “không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. 

         Kết quả nghiên cứu, rà soát và phân tích so sánh giữa các quy định của pháp luật hiện hành với Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập cho thấy, vẫn còn nhiều quy định trong các đạo luật hiện hành chưa tương thích với các quy định của Hiến pháp năm 2013 và các Công ước nêu trên. Cụ thể là 

         1. Trong lĩnh vực chính trị

(i). Quyền bình đẳng trước pháp luật

          - Bộ luật Tố tụng dân sự chưa có tiêu chí cụ thể, dẫn đến sự tùy tiện của Tòa án trong việc cho phép hoặc không cho phép tham gia đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

- Luật Tổ chức Tòa án nhân dân chưa thể hiện được các lĩnh vực mà người dân được bình đẳng trước pháp luật quy định trong Hiến pháp năm 2013.

- Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chưa thể hiện được tinh thần của Hiến pháp 2013 về việc không phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

(ii). Về quyền bình đẳng nam nữ

-      Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa bổ sung vấn đề thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

          (iii). Về quyền bầu cử, ứng cử

         Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định công dân có quyền bầu cử và có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật là chưa đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp 2013 về việc thực hiện quyền bầu cử phải do luật định.

          (iv). Về quyền trưng cầu dân ý

          Bộ luật hình sự chưa có quy định về việc xử lý đối với hành vi vi phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Hiện nay chưa có luật do Quốc hội ban hành về việc Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

(v). Về quyền tự do thông tin

Luật Tổ chức Chính phủ chưa đảm bảo đúng tinh thần mà Công ước và Hiến pháp đề ra. Cụ thể quy định của Hiến pháp 2013 về quyền tự do ngôn luận, bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ. Trong một số trường hợp, việc hạn chế đến quyền tự do thông tin là cần thiết nhưng phải được quy định trong luật.

- Chưa có Luật Tiếp cận thông tin nhằm quy định đầy đủ, toàn diện về quyền tiếp cận thông tin.

- Chưa có Luật Biểu tình quy định về quyền biểu tình. Do vậy, trên thực tế việc xử lý hành chính hoặc truy tố hình sự những hành vi này được vận dụng quy định về hành vi gây rối trật tự công cộng.

2. Trong lĩnh vực dân sự, tư pháp

          (i). Quyền sở hữu

-    Bộ luật Dân sự chưa quy định trường hợp cho phép trưng mua, trưng dụng “tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai” và quy định việc bồi thường theo quy định pháp luật chưa tương thích với quy định bồi thường theo giá thị trường của Hiến pháp.

            - Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam chưa quy định về vấn đề bồi thường theo giá thị trường khi trưng mua, trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức Việt Nam.

-    Việc quy định về trưng mua, trưng dụng phương tiện kỹ thuật thuộc sở hữu cá nhân, tổ chức của Việt Nam được quy định bằng Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên là chưa phù hợp, cần được quy định bằng Luật.

(ii) Quyền thân thể

Sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, theo đó, cần quy định rõ khái niệm tra tấn, bao gồm cả tra tấn về thể xác lẫn tinh thần và tra tấn thành một tội danh trong Bộ luật hình sự phù hợp với định nghĩa tra tấn quy định tại Công ước và các quy định trong tố tụng hình sự về bồi thường những tổn thất về tinh thần của nạn nhân bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người.

Hiện tại, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có các quy định liên quan đến hành vi tra tấn cả về thể chất và tinh thần tại nhiều điều khoản như quy định về tội bức cung; tội dùng nhục hình; tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ, tội hành hạ người khác; tội làm nhục người khác; tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; tội làm nhục, hành hung đồng đội; tội ngược đãi tù binh, hàng binh...nhưng chưa quy định  "tra tấn" thành một tội danh riêng.

(ii). Về quyền kết hôn, ly hôn

         Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chưa quy định trường hợp vi phạm quyền kết hôn do cá nhân bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án mà sau đó được cơ quan có thẩm quyền xác định là oan sai.

3Trong lĩnh vực kinh tế

Sửa đổi Bộ luật dân sự đảm bảo công dân được kinh doanh tất cả các ngành, nghề pháp luật không cấm sau khi đã đăng ký kinh doanh.

Sửa đổi, bổ sung Luật kinh doanh bất động sản, theo đó, cần bổ sung quy định mới về đối tượng được mua, thuê mua trụ sở, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất kinh doanh; được mua, thuê, thuê mua nhà ở theo quy định pháp luật nhà ở; được mua, thuê, thuê mua bất động sản của doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bất động sản tại các khu vực ngoài phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng.

4. Trong lĩnh vực xã  hội

(i)Quyền bất khả xâm phạm về nhà ở

- Bộ luật Hình sự chỉ mới quy định về hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân, trong khi đó Công ước quốc tế và Hiến pháp 2013 quy định quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, nhà ở được áp dụng cho mọi người (quyền con người).

- Bộ luật Dân sự quy định về việc khám xét chỗ ở do pháp luật quy định là chưa phù hợp trong khi đó, theo Hiến pháp 2013, quyền này phải do luật quy định.

          (ii). Quyền hưởng an sinh xã hội

Bộ luật Hình sự chưa có quy định xử lý đối với hành vi vi phạm quyền được bảo đảm an sinh xã hội như hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, đóng không đúng hạn, không đầy đủ hoặc gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động.

(iii)Quyền về sức khỏe

Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Dược mới quy định bảo vệ sức khỏe của công dân mà chưa phải của mọi người như quy định của các công ước quốc tế và của Hiến pháp 2013. Trong Luật Dược không quy định rõ trường hợp nào được miễn thử lâm sàng và trường hợp nào được miễn một số giai đoạn thử lâm sàng. Bên cạnh đó, quy định miễn thử lâm sàng hoặc miễn một số giai đoạn thử lâm sàng chỉ áp dụng đối với thuốc đã được lưu hành hợp pháp ít nhất 5 năm tại nước xuất xứ đã ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận thuốc của mọi người.

           (iv). Quyền về việc làm

Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Bình đẳng giới quy định quyền về việc làm đã cơ bản tuân thủ các cam kết quốc tế. Tuy vậy, một số quy định pháp luật chưa thể hiện đầy đủ và toàn diện tinh thần của các công ước quốc tế. Cụ thể là Luật người khuyết tật tiếp cận người khuyết tật ở mức độ khiếm khuyết về mặt sức khỏe mà không theo cách tiếp cận của Công ước về người khuyết tật là tiếp cận về mặt xã hội. Đồng thời, khái niệm về người khuyết tật trong Luật không tương thích với Công ước.

           5. Trong lĩnh vực văn hóa

            (i). Quyền về văn hóa

          Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn quy định chung chung về quyền văn hóa đối với trẻ em mà chưa có quy định ưu đãi, đặc thù cho trẻ em như miễn, giảm phí khi tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch; chưa quy định chi tiết về việc chế tài, xử lý đối với trách nhiệm của chủ thể nghĩa vụ trong việc bảo đảm các quyền thụ hưởng các giá trị văn hóa, quyền được tiếp cận các dịch vụ văn hóa,  quyền được giữ gìn bản sắc,... đặc biệt là đối với những nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số,...

 (ii). Quyền về giáo dục

 - Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa quy định thiệt hại được bồi thường do vi phạm quyền học tập của công dân.

 -  Luật Giáo dục chỉ mới quy định phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở nhưng chưa có quy định ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng hải đảo;

 - Luật Giáo dục đại học chưa có quy định ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng hải đảo.

6.  Về quyền của nhóm dễ tổn thương

(i)Quyền của phụ nữ

-    Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa bổ sung vấn đề thực hiện lồng ghép bình đẳng giới trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

            (ii). Quyền của trẻ em

-       Bộ luật Hình sự chưa quy định chế tài để xử lý đối hành vi “cưỡng bức lao động trẻ em”.

-       Luật Nuôi con nuôi chưa quy định về việc trẻ em được thông tin, tư vấn trước khi đưa ra ý kiến về sự đồng ý làm con nuôi vì quyền này được ghi nhận tại Điều 12 Công ước về quyền trẻ em.

-       Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em chưa quy định về vấn đề trẻ em được sống trong môi trường an toàn, không bị xâm hại, hành hạ ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột, sao nhãng…; chưa quy định đặc thù về vấn đề  bình đẳng giới đối với trẻ em trai và trẻ em gái; chưa có quy định về quyền về nhà ở phù hợp với trẻ em; chưa có quy định về quyền an sinh xã hội, chính sách trợ giúp trẻ em và gia đình; chưa có quy định đầy đủ về quyền tham gia của trẻ em như quyền được tiếp cận thông tin; tự do bày tỏ ý kiến, phát biểu quan điểm về tất cả mọi vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em; được tôn trọng ý kiến; đặc biệt trong quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có ảnh hưởng đến trẻ em; tự do kết giao và tự do hội họp hoà bình; có cơ quan giám sát độc lập về quyền trẻ em có sự tham gia của trẻ em; chưa có quy định về các hình thức lao động trẻ em tồi tệ; quyền bảo vệ trẻ em không phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần quy định trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trước hết phải thuộc về Nhà nước, sau đó đến gia đình và xã hội.

- Luật Hôn nhân và gia đình quy định trẻ em từ đủ 9 tuổi mới được bày tỏ quan điểm về việc sống cùng cha hoặc mẹ sau khi ly hôn là khá muộn bởi vì theo quy định pháp luật về dân sự trẻ em từ 6 tuổi đã có một phần năng lực hành vi dân sự thông qua việc thực hiện những giao dịch dân sự nhỏ liên quan đến nhu cầu hàng ngày của họ.

- Bộ luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự quy định khái niệm người chưa thành niên mà không có khái niệm trẻ em. Như vậy, chưa có sự tương đồng giữa các quy định pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế.

- Luật Trợ giúp pháp lý chỉ quy định trẻ em không nơi nương tựa mới được trợ giúp pháp lý miễn phí, các trường hợp khác sẽ do luật sư chỉ định. Điều này dẫn đến sự bất cập, không đảm bảo được quyền của trẻ em khi các cơ quan tiến hành tố tụng chính là người thực hiện quyền chỉ định luật sư cho trẻ em và thành toán tiền thù lao chỉ định cho luật sư. Bên cạnh đó, trẻ em được trợ giúp pháp lý theo quy định chỉ là người dưới 16 tuổi nên chưa có sự phù hợp giữa Luật trợ giúp pháp lý và pháp luật hình sự.

          (iii)Quyền của người khuyết tật

Cần sửa đổi, bổ sung Luật về người khuyết tật để tương thích với Công ước về người khuyết tật, định nghĩa về "người khuyết tật" theo Công ước và các quyền văn hóa, xã hội cơ bản của người khuyết tật như bình đẳng và không phân biệt đối xử; khả năng tiếp cận các dịch vụ về y tế, giáo dục, an sinh xã hội; mức sống và phúc lợi xã hội thỏa đáng; tham gia hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí và thể thao; quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, quyền học tập, giáo dục.

 

Một số kiến nghị, đề xuất

Để bảo đảm thực thi đầy đủ các quy định của Hiến pháp 2013 và theo nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế “Pacta sunt servanda”, quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ và thực hiện những tiêu chuẩn được ghi nhận trong điều ước quốc tế mà họ là thành viên.

Đồng thời, việc bảo đảm sự tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên thể hiện sự tôn trọng cam kết quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai việc thực hiện các điều ước quốc tế trong thực tiễn. Từ kết quả rà soát, phân tích đối chiếu, Nhóm nghiên cứu kiến nghị:

Thứ nhất, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về tinh thần và nội dung của bản Hiến pháp năm 2013, các điều khoản cụ thể của bản Hiến pháp này cũng như các quy định của các Công ước Liên hợp quốc về quyền con người mà Việt Nam là thành viên để từ đó, nhận thức và quán triệt đầy đủ các quy định của Hiến pháp và Công ước về quyền con người trong việc xây dựng và sửa đổi các quy định pháp luật tương thích với Hiến pháp 2013 và các cam kết của Việt Nam trong các Công ước về quyền con người mà đã tham gia.

Thứ hai, khẩn trương tiến hành nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các đạo luật hiện hành, đặc biệt là các đạo luật đã nêu ở trên nhằm kịp thời khắc phục những lỗ hổng pháp lý. Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về quyền con người, quyền công dân. Phải căn cứ đồng thời vào các quy định của Hiến pháp 2013 và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập mà tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, khẩn trương soạn thảo và ban hành Luật về tiếp cận thông tin, Luật trưng cầu ý dân theo quy định của Hiến pháp 2013 và Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014; bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh dự án luật về lập hội.

Thứ tư, tăng cường, đẩy mạnh hoạt động lập pháp của Quốc hội, tập trung vào việc xem xét, đánh giá mức độ tương thích của các quy phạm pháp luật về lĩnh vực quyền con người với các quy định của Hiến pháp 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập.

Phát huy vai trò của Quốc hội, các cơ quan Quốc hội trong giám sát việc thực hiện Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát (UPR), nhất là thực hiện các khuyến nghị của cộng đồng quốc tế về vấn đề này. Tăng cường sự phối hợp giữa các ủy ban chuyên môn của Quốc hội trong việc xây dựng Báo cáo quốc gia về nhân quyền để trình Hội đồng nhân quyền.

          Thứ năm, cần xem xét áp dụng kỹ thuật “một luật sửa nhiều luật”, theo đó, một văn bản quy phạm pháp luật có thể được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành được quy định trong Luật BHVBQPPL.[2] Trên thực tế, nội dung quyền con người, quyền công dân được thể hiện trong nhiều đạo luật có tính lồng ghép và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc áp dụng kỹ thuật này cho phép rút ngắn thời gian và quy trình soạn thảo văn bản, bảo đảm tính đồng bộ, toàn diện trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này.

 

Ts. Ngô Đức Mạnh

                             Phó Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội


[1] Số liệu thống kê các văn bản luật, pháp lệnh được ban hành từ năm 1986 đến nay do Thu viện Quốc hội cung cấp.

[2] Kỷ thuật này đã được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và vừa qua, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa 13 đã sửa đổi đồng thời các đạo luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, luật thuế tiêu thụ đặc biệt.