Chia sẻ niềm tin - Nâng cao vị thế

Phân tích chính sách phát triển xã hội liên quan đến lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em

  • Thực hiện: Administrator
  • 28/11/2014

Công ước LHQ về quyền trẻ em đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới ký và phê chuẩn, trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy mà vấn đề quyền của trẻ em đã được các quốc gia đặt lên hàng đầu trong chương trình lập pháp và được đưa vào chiến lược hoặc chương trình phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm. Công ước về quyền trẻ em cũng đã mở đường cho việc tăng cường bảo vệ trẻ em theo quan điểm hệ thống, bảo đảm cho trẻ em quyền được bảo vệ, không bị xâm hại, xao nhãng, bạo lực, bóc lột và phân biệt đối xử. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, Việt Nam đã có một số đổi mới trong chính sách phát triển xã hội liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em nhằm cả thiện môi trường sống an toàn, lành mạnh, thân thiện cho mọi trẻ em.

1. Đánh giá chung

Thứ nhất, Chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em chuyển từ xây dựng luật pháp, chính sách, chương trình đến từng nhóm đối tượng trẻ em yếu thế trong xã hội sang xây dựng khung pháp lý toàn diện.

Chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước kia chỉ tập trung giải quyết hậu quả, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt[1], tuy nhiên trong những năm gần đây đã chú trọng đến việc chủ động phòng ngừa, can thiệp sớm, loại bỏ những nguy cơ cho mọi trẻ em trước khi bị tổn hại. Ví dụ: từ các chính sách phân tán, nhỏ lẻ như Quyết định 19/2004/QĐ-TTg của Chính phủ tập trung giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc nguy hiểm, Quyết định 84/2009/QĐ-TTg của Chính phủ về kế hoạch hành động vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDs, Quyết định 589/QĐ-LĐTBXH của Bộ LĐ-TBXH về phòng ngừa tai nạn thương tích trẻ em… nay chuyển sang xây dựng Chương trình quốc gia Bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 (Quyết định 267/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/2/2011) nhằm phát triển Hệ thống bảo vệ trẻ em trong đó có hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, bao gồm: luật pháp quốc gia, các văn bản quy phạm pháp luật, dưới luật liên quan đến bảo vệ trẻ em và các chính sách xã hội. Đặc biệt, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020 (Quyết định 1555/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/10/2012) đã đưa ra khung chương trình, chính sách đầu tư cho trẻ em trung hạn và dài hạn nhằm hướng tới một khung chính sách toàn diện cho trẻ em.

Tuy nhiên, mức chuẩn trợ cấp xã hội và các mức chuẩn khác trong hệ thống an sinh xã hội chưa được nghiên cứu, gắn kết trong một hệ thống để tạo nên mái nhà an sinh (mức chuẩn trợ cấp người có công, mức chuẩn bảo hiểm xã hội, mức sống tối thiểu, chuẩn nghèo…). Tuy gọi là hệ thống an sinh xã hội, nhưng trên thực tế nó mới chỉ là hệ thống về mặt hình thức, chưa mang tính hệ thống về mặt nội hàm; điều này cũng có thể gây nên tình trạng bất bình đẳng xã hội từ khâu hoạch định chính sách an sinh xã hội. Hệ thống chính sách, chương trình trợ giúp xã hội đối với trẻ em gồm: (1) hỗ trợ nuôi dưỡng, chăm sóc thay thế bằng tiền mặt để duy trì mức sống tối thiểu; (2) Trợ giúp tiếp cận giáo dục; (3) Trợ giúp tiếp cận y tế, chỉnh hình, phục hồi chức năng; (4) Trợ giúp học nghề, tạo việc làm; (5) Trợ giúp tiếp cận công trình công cộng; (6) Trợ giúp các hoạt động văn hóa; (7) Trợ giúp đột xuất khác … đang nằm phân tán ở nhiều đơn vị quản lý thuộc nhiều bộ ngành theo nhóm vấn đề khác nhau liên quan đến trẻ em. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo. Chính sách xã hội còn chậm đổi mới so với chính sách kinh tế. Một trẻ em yếu thế hoặc gia đình nuôi dưỡng trẻ có thể nhận được nhiều chính sách trong khi nhóm trẻ em yếu thế khác lại không được hưởng chính sách nào. Trợ giúp xã hội ở cộng đồng: năm 2011 trợ cấp 1,673 triệu người (trong đú cú trẻ em), chiếm gần 2% dõn số.  Phân bổ nguồn lực an sinh xã hội không đồng đều, chưa tính đến yếu tố tự an sinh của gia đình trẻ yếu thế. Tình trạng "rò rỉ” đối tượng trợ giúp xã hội là khá phổ biến, mức độ rò rỉ do xác định đối tượng chưa đúng dẫn đến khoảng 14-17% số người được hưởng trợ cấp xã hội chưa đúng đối tượng trợ giúp; ngược lại cũng còn một số đối tượng cần được trợ giúp thì lại bị “bỏ sót”. Nguyên nhân chính là thiếu đội ngũ cán bộ xã hội mang tính chuyên nghiệp ở cộng đồng.

Thứ hai, Xây dựng được hệ thống chính sách và chương trình toàn diện theo hướng tiếp cận từ đáp ứng nhu cầu trẻ em sang đảm bảo quyền cho mọi trẻ em trong xã hội.

Các đối tượng được hưởng chính sách xã hội và dịch vụ công không giới hạn trong 10 nhóm trẻ em có HCĐB quy định trong Luật BVCSGDTE mà mở rộng ra các nhóm có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt[2] hướng tới một môi trường pháp lý và hành chính gọn nhẹ, dịch vụ mang tính chuyên nghiệp, từng bước hội nhập với quốc tế; Tiết kiệm được chi phí xã hội trong việc chi tiêu xử lý các vấn đề xã hội liên quan đến trẻ em và thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai

Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế -xã hội còn khó khăn, thiên tai xảy ra thường xuyên, nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội cho trẻ em còn rất hạn hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội và khuyến khích gia đình trẻ yếu thế tự vươn lên. Mức trợ cấp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn thấp so với mức sống trung bình của cộng đồng dân cư (ước tình chỉ bằng 30%), so chuẩn nghèo trong từng giai đoạn (khoảng) 36-45% chuẩn nghèo. Chưa bảo đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đặc biệt ở khu vực miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất thấp; Chênh lệch các chỉ số về an sinh xã hội giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước còn lớn. Một số tỉnh nghèo thu không đủ chi, thu không kịp nhu cầu chi dẫn đến tình trạng chi trả trợ cấp chậm thậm chí dồn 2-3 tháng mới chi trả một lần; như vậy đời sống của các đối tượng này càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, điều kiện địa lý đa dạng, trải dài với văn hóa nhiều sắc tộc dẫn đến hạn chế về nhận thức của người dân ở các vùng miền khác nhau. Vì vậy, hướng tiếp cận xây dựng hệ thống chính sách chưa thể đảm bảo quyền ngay được mà vẫn tập trung chính vào đáp ứng nhu cầu.

Thứ ba, Định hướng chính sách phát triển xã hội về lĩnh vực BVCSTE đến năm 2020

Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, một số vấn đề có liên quan đế chính sách phát triển xã hội liên quan đến BVCSTE như sau:

- Về trợ giúp xã hội trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc trẻ mồ côi, người khuyết tật. Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 2,5 triệu người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên, trong đó có trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

- Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho trẻ em, đặc biệt trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và trẻ em dân tộc thiểu số: a) Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Tăng số lượng học sinh trong các trường dân tộc nội trú, mở rộng mô hình trường bán trú; xây dựng và củng cố nhà trẻ trong khu công nghiệp và vùng nông thôn. Xây dựng đề án phổ cập mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi. Nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở, đặc biệt là đối với con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Phấn đấu đến năm 2020 có 99% trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học, 95% ở bậc trung học cơ sở; 98% người trong độ tuổi từ 15 trở lên biết chữ; trên 70% lao động qua đào tạo; b) Bảo đảm y tế tối thiểu: Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Đến năm 2020, trên 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân 10%; c)Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo. Đến năm 2020 trên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế. d) Bảo đảm nhà ở tối thiểu; e) Bảo đảm nước sạch; f) Bảo đảm thông tin

- Đảm bảo Quyền trẻ em cho mọi trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện; Giảm thiểu bất bình đẳng về mức sống, về cơ hội phát triển giữa các nhóm trẻ em khác nhau; Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc trong xã hội liên quan đến ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột, xao nhãng trẻ em, mại dâm trẻ em, trẻ em nghiên ma túy, vi phạm phát luật... dảm bảo ổn định trật tự xã hội.

2. Khung phân tích chính sách liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em

 

CHÍNH SÁCH & CHƯƠNG TRÌNH         

PHÂN TÍCH/KHUYẾN NGHỊ

Văn bản        

Mục tiêu/đối tượng hưởng lợi        

Phân tích       

Khuyến nghị

CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP XÃ HỘI

Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội

Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày ngày 27/02/2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 67

Quyết định số 38/2004/QĐ-TTg ngày 17/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi

· gồm 7 nhóm đối tượng liên quan đến trẻ em:

(1) Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng thuộc hộ gia đình nghèo

(2) Trẻ em khuyết tật nặng,

(3) Trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng,

(4) Hộ gia đình có NKT đặc biệt nặng,

(5) Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo,

(6) Người nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi,

(7) Người đơn thân hộ nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16 tuổi.

· Mức trợ cấp: cho trẻ em 180.000 – 270.000 – 360.000/em/tháng tuỳ theo từng loại đối tượng, độ tuổi;cho gia đình nuôi dưỡng 270.000 – 360.000 – 450.000 – 540.000 đồng/tháng tuỳ theo từng loại đối tượng; sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội 360.000 - 450.000 đồng/em/tháng tuỳ theo từng đối tượng, độ tuổi

· Ngoài ra, được cấp thẻ bảo hiểm y tế và hưởng thêm các khoản trợ giúp như: các đối tượng học văn hoá, học nghề được miễn, giảm học phí, được cấp sách, vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật; khi chết được hỗ trợ kinh phí mai táng. Các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước, ngoài các khoản trợ giúp trên còn được trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường ngày; trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường; riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội… khi chết được mai tang phí

- Trợ giúp xã hội ở cộng đồng: năm 2011 trợ cấp 1,673 triệu người (trong đó có trẻ em), chiếm gần 2% dân số.

- Mức trợ cấp xã hội khá thấp so với mức sống trung bình của cộng đồng dân cư (ước tình chỉ bằng 30%), so chuẩn nghèo trong từng giai đoạn (khoảng) 36-45% chuẩn nghèo

- Nuôi dưỡng, chăm sóc trong cơ sở trợ giúp trẻ em: số lượng trẻ em được nuôi dưỡng trong các cơ sở của là 22.597 em, trong đó có 10.222 em hiện đang được chăm sóc, nuôi dưỡng trong 313 cơ sở do nhà nước thành lập và có 12359 em sống trong 341 cơ sở do các tổ chức xã hội và tư nhân thành lập.

- Các địa phương đã đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa huy động nguồn lực và khuyến khích thành lập cơ sở tư nhân, từng bước giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước.

- Tăng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội lên khoảng 4-5% dân số

- mức trợ cấp xã hội đáp ứng 70% nhu cầu chi tiêu của mức sống tối thiểu (tức là khoảng 350 ngàn đồng một tháng)

- Mở rộng trẻ em trong các hộ gia đình nghèo, gia đình thu nhập thấp (trước mắt có thể tạm coi là hộ cận nghèo) phải gắn với điều kiện bắt là gia đình và trẻ em phải cam kết đến trường học, trừ trường hợp do khuyết tật nặng trẻ em không có khả năng đến trường học); đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở vùng cao, biên giới, hải đảo.

Nghị định 118/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở các cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng: Chế độ ăn, mặc, nghỉ, chữa bệnh              

Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007 ban hành quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về

Chế độ trợ cấp: Nạn nhân sau khi tiếp nhận được cấp một lần quần áo, chăn màn, vật dụng cá nhân cần thiết; Định mức ăn hàng tháng của nạn nhân tại cơ sở tiếp nhận nạn nhân và cơ sở hỗ trợ nạn nhân được áp dụng như đối tượng tại các cơ sở xã hội do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý; Trong thời gian lưu trú tại cơ sở tiếp nhận, nạn nhân được sắp xếp chỗ ở phù hợp với lứa tuổi, giới tính và tình trạng sức khỏe; Nạn nhân khi trở về địa phương được hỗ trợ tiền tàu xe, trợ cấp tiền ăn trong thời gian đi đường, được hưởng các chính sách hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng theo quy định.

Chế độ hỗ trợ về y tế: Đối với nạn nhân phải điều trị để phục hồi sức khoẻ thì được xem xét hỗ trợ chi phí khám bệnh, tiền thuốc chữa trị; Chi phí điều trị trong thời gian nằm viện do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chi trả từ nguồn ngân sách hỗ trợ nạn nhân theo quy định về mức thu một phần viện phí tại các cơ sở y tế công lập.

Quy chế quy định hỗ trợ về tâm lý:Các cơ quan chức năng khi thực hiện công tác tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân cần có các biện pháp nhằm giúp nạn nhân ổn định về tâm lý ngay từ khi tiếp nhận và trong suốt quá trình hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng;

Quy chế quy định Hỗ trợ về thủ tục pháp lý: Nạn nhân trở về nơi cư trú được xem xét cấp lại hộ khẩu, chứng minh nhân dân. Trẻ em là con của nạn nhân đi cùng mẹ nếu chưa có giấy khai sinh thì được làm thủ tục khai sinh theo quy định của pháp luật hiện hành.

Quy chế quy định Hỗ trợ học văn hóa, học nghề: Nạn nhân là trẻ em nếu tiếp tục đi học thì được hỗ trợ tiền mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập trong năm học đầu tiên; Nạn nhân khi trở về địa phương thì được xem xét, hỗ trợ học nghề. Việc tổ chức dạy nghề do hệ thống các Trung tâm Dạy nghề tại địa phương thực hiện.

CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC SỨC KHỎE

Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008;

Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ

Quyết định số 797/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2012

Nhà nước đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi trong đó có trẻ mồ côi, bỏ rơi, khuyết tật ...và được chi trả 100% chi phí khám, chữa bệnh theo quy định của Bảo hiểm y tế.

Trẻ em được hưởng trợ cấp xã hội; trẻ em thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế và được hưởng 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh phần còn lại do người bệnh tự thanh toán với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ gia đình cận nghèo, Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thuộc hộ cận nghèo được nhà nước hỗ trợ tối thiểu bằng 70% mức đóng bảo hiểm y tế (theo chuẩn nghèo quốc gia)

Mở rộng hỗ trợ trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh kinh thế khó khăn,

Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)

Nhà nước có chính sách hỗ trợ phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, nuôi dưỡng trẻ em dưới 6 tháng tuổi sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV bằng sữa thay thế.

+ Phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí.

+ Phụ nữ nhiễm HIV được tạo điều kiện tiếp cận các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con.

+ Phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, cho con bú được tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS.

+ Cơ sở y tế có trách nhiệm theo dõi, điều trị và thực hiện các biện pháp nhằm giảm sự lây nhiễm HIV từ mẹ sang con cho phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai.

+ Ưu tiên cấp miễn phí cho trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV được sử dụng thuốc kháng HIV do ngân sách nhà nước chi trả, thuốc do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS.

Quyết định số 1019/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020           

Hằng năm 70% người khuyết tật tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác nhau; 70% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; khoảng 60.000 trẻ em và người khuyết tật được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp;

CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC

Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 quy định miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 – 2015           

Đối tượng không phải đóng học phí: học sinh tiểu học; học sinh, sinh viên sư phạm; Học sinh sống thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Thuộc đối tượng bảo trợ xã hội; Con của hạ sĩ quan và binh sĩ, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong lực lượng vũ trang nhân dân;

Đối tượng được giảm học phí bao gồm: Các đối tượng được giảm 70% học phí gồm: học sinh, sinh viên các chuyên ngành nhã nhạc cung đình, chèo, tuồng, cải lương, múa, xiếc và một số chuyên ngành, nghề nặng nhọc, độc hại. Các đối tượng được giảm 50% học phí gồm: Trẻ em là con CBCNVC mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp được hưởng trợ cấp thường xuyên; Trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo; Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề.

Đối tượng được hỗ trợ chi phí học tập: Trẻ em thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Trẻ em thuộc đối tượng bảo trợ xã hội

Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09 tháng 02 năm 2010 về phê duyệt Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 – 2015

Quyết định số 60/2011/QĐ-TTG ngày 26 tháng 10 năm 2011 Quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011 - 2015

Hỗ trợ trẻ năm tuổi ở các cơ sở giáo dục mầm non có cha mẹ thư­ờng trú tại các xã biên giới, núi cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; mồ côi cả cha lẫn mẹ không nơi n­ương tựa hoặc bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế; cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định của nhà nư­ớc

Hỗ trợ 120 nghìn đồng/tháng (một năm học 9 tháng) để duy trì bữa ăn trưa tại trường;

Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn học tại các trường mầm non tư thục được nhà nước hỗ trợ một phần học phí, nhằm tăng tỷ lệ huy động trẻ đên trường;

Tổ chức các loại hình trường lớp phù hợp, tạo cơ hội cho trẻ em năm tuổi được đến trường: các vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, các tỉnh vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, 100% số trẻ em năm tuổi được học tại các trường công lập từ năm 2010. Vùng nông thôn đồng bằng, phần lớn trẻ em được học tại các trường công lập có thu học phí. Duy trì, giữ vững số trẻ dưới năm tuổi ra lớp công lập không thấp hơn mức hiện có, phát triển giáo dục mầm non ngoài công lập ở những nơi có điều kiện.

Thông tư số 39/2009/TT-BGDĐT ngày 29/12/2009 của Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành quy định giáo dục hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn

Có quyền nhập học tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Tuổi đi học của trẻ em có hoàn cảnh khó khăn có thể cao hơn tuổi quy định.

Được quan tâm giúp đỡ và cung cấp thông tin; được tôn trọng và đối xử bình đẳng trong học tập và trong các hoạt động khác.

Được học tập phù hợp với trình độ, năng lực cá nhân; được giúp đỡ đặc biệt để đạt được các kỹ năng cần thiết trong học tập và sinh hoạt (nếu cần).

Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không thể đáp ứng yêu cầu của môn học, hoặc hoạt động giáo dục thì người đứng đầu cơ sở giáo dục quyết định việc miễn, giảm môn học, hoạt động giáo dục đó.

Được xét miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp khác; được cấp sách giáo khoa, học phẩm, hỗ trợ sinh hoạt khác theo quy định của Nhà nước.

Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày 22 tháng 11 năm 2010 phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010 - 2015

Hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù cho trẻ em, học sinh, sinh viên các dân tộc rất ít người. Bảo đảm: 95% trẻ mẫu giáo 3-5 tuổi dân tộc rất ít người được học 2 buổi/ngày theo Chương trình giáo dục mầm non mới tại các trường, lớp mẫu giáo thôn bản công lập; 100% học sinh dân tộc rất ít người cấp tiểu học được học tại các điểm trường ở thôn bản và ở các trường phổ thông dân tộc bán trú; 100% học sinh dân tộc rất ít người hoàn thành chương trình tiểu học được vào học tại các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện hoặc trường phổ thông dân tộc bán trú; 100% học sinh dân tộc rất ít người tốt nghiệp trung học cơ sở ở các trường phổ thông dân tộc nội trú huyện, trường phổ thông dân tộc bán trú được vào học tại trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh hoặc trường phổ thông dân tộc nội trú huyện liên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông hoặc vào học tại các trường trung cấp chuyên nghiệp; 95% học sinh dân tộc rất ít người sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông được ưu tiên cử tuyển, xét tuyển đặc biệt vào các trường, khoa dự bị đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề; 100% trẻ em, học sinh, sinh viên các dân tộc rất ít người thuộc hộ nghèo được hưởng chế độ, chính sách đặc thù về hỗ trợ học tập.

Chính sách hỗ trợ rất thiết thực, nhưng chỉ giải quyết được tương đối những vấn đề có tính cấp thiết để động viên, khuyến khích trẻ em tới trường. Nguyên nhân sâu xa (có tính bản chất) vẫn là kinh tế gia đình khó khăn, hủ tục lạc hậu, đồng bào chưa thay đổi được nhận thức về thói quen trong ăn, ở, sinh hoạt và canh tác, chưa ý thức được việc cần phải đầu tư cho con em học hành mới thay đổi được cuộc sống        

hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường PTDTNT và PTDTBT

Quyết định số 82/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư liên tịch số 43/TTLT-BTC-BGD&ĐT ngày 2/5/2007 của Liên Bộ Tài Chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo); các chế độ khác được quy định tại Thông tư liên tịch số 119/2009/TTLT-BTC-BGD&ĐT ngày 29/5/1999 của Liên Bộ Tài Chính và Giáo dục và Đào tạo

Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg Ban hành một sô chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú

Học sinh trường PTDTNT được cấp học bổng bằng 80% mức lương tối thiểu

Hỗ trợ tiền ăn: học sinh bán trú, mỗi tháng được hỗ trợ bằng 40% mức lương tối thiểu chung và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh; Hỗ trợ nhà ở: học sinh bán trú được ở trong khu bán trú của nhà trường; đối với những học sinh phải tự lo chỗ ở, mỗi tháng được hỗ trợ bằng 10% mức lương tối thiểu chung và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh; Đối với học sinh bán trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nếu có nhiều mức hỗ trợ cho cùng một chính sách thì học sinh bán trú chỉ được hưởng một mức hỗ trợ cao nhất

Chính sách hỗ trợ học sinh có hoàn cảnh khó khăn đi học phải đi đôi với các điều kiện: con hộ nghèo, vùng khó khăn, hoặc tính theo quãng đường từ nhà đến trường của trẻ em,...có nhiều địa phương không hỗ trợ được các thiết bị đun, nấu, ăn uống,...vì vậy nhà trường không tổ chức nấu ăn trưa cho các em được, số tiền này giáo viên chi trả trực tiếp cho gia đình và thường bị gia đình các em chi tiêu vào việc khác. Có địa phương tổ chức cho trẻ em ăn được tại lớp học nhưng trong lớp còn một số trẻ em không được hưởng chế độ, giáo viên phải cho các trẻ này ăn chung với các em có chế độ, gây thắc mắc trong đồng bào.

Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ

chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú quy định chính sách và tổ chức dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú, theo đó, học sinh dân tộc thiểu số tốt nghiệp các trường PTDTNT học nghề được hưởng học bổng, trợ cấp xã hội và các chính sách khác như học sinh phổ thông dân tộc nội trú.

Chính sách hỗ trợ cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn thường chỉ theo từng giai đoạn nhất định và không đi cùng với các hệ thống chính sách phát triển kinh tế, xã hội khác, khi hết chính sách hỗ trợ tình hình kinh tế của đồng bào phần lớn chưa được cải thiện nên hiệu quả của chính sách hỗ trợ học sinh đến trường không đạt được kết quả như mong đợi.           

[1] Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là những trẻ em có hoàn cảnh không bình thường (về cá nhân và môi trường chăm sóc) bao gồm: Trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ lang thang; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xuác với chất độc hại; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em làm việc xa gia đình; trẻ em bị ảnh hưởng chất độc hoá học; Trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật.

[2]Trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt: là những trẻ em ở trong những điều kiện, hoàn cảnh mà nếu không được can thiệp kịp thời thì sẽ trở thành trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Các yếu tố nguy cơ khiến cho trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt có thể bao gồm các yếu tố bên ngoài (gia đình, nhà trường, cộng đồng, xã hội) và những yếu tố cá nhân của trẻ em (như thiếu kỹ năng xã hội, thiếu kỹ năng sống, lêu lổng, bỏ học